Khởi kiện vụ án dân sự là quyền và là hành vi của các tổ chức, cơ quan, cá nhân bằng cách tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp đưa sự việc có tranh chấp ra trước Tòa án theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Vậy trả lại đơn khởi kiện là gì? Quy định về trả lại đơn khởi kiện như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm trả lại đơn khởi kiện:
Đơn khởi kiện là một loại văn bản của các cá nhân, tổ chức, cơ quan gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong đó, đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền hoặc lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.
Ta nhận thấy, trong tố tụng dân sự, đơn khởi kiện là một cách thức để các đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình
Trả lại đơn khởi kiện là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện bởi thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý vụ án.
Trong quá trình trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, các Thẩm phán cần phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện (bao gồm cả tài liệu, chứng cứ kèm theo) mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật.
2. Quy định về trả lại đơn khởi kiện:
– Trường hợp thứ nhất: Các chủ thể là người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
– Trường hợp thứ hai: Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
– Trường hợp thứ ba: Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho tòa án, trừ trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng.
– Trường hợp thứ tư: Chưa đủ điều kiện khởi kiện.
– Trường hợp thứ năm: Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án.
– Trường hợp thứ sáu: Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán.
– Trường hợp thứ bảy: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
3. Các trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện:
Có thể thấy theo quy định nêu trên, có bảy trường hợp Thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Ngoài ra, theo Điều 2 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
– Các chủ thể là người khởi kiện không khởi kiện nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc cơ quan, tổ chức mà mình là người đại diện hợp pháp hoặc của cá nhân khác, công cộng và Nhà nước.
– Các chủ thể là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự là người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
Trường hợp thứ hai: Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngoại trừ các trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại.
Trường hợp thứ ba: Đã hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.
Nếu đã hết thời hạn được nêu cụ thể bên trên mà cá nhân, tổ chức khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí thì Tòa án có quyền trả lại đơn trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.
Trường hợp thứ tư: Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật được hiểu là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng các chủ thể là người khởi kiện đã khởi kiện đến cơ quan Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện cụ thể đó.
Đối với tranh chấp chủ thể nào là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202
Đối với các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất cụ thể như là: các tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp thứ năm: Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo Điều 4 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán những vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Đối với những vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Trường hợp thứ sáu: Các chủ thể là người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Theo quy định của pháp luật, về hình thức, đơn khởi kiện phải có các nội dung về: Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Chính bởi vì thế, khi đơn khởi kiện được yêu cầu bổ sung, sửa đổi nhưng người khởi kiện không thực hiện thì Tòa được quyền trả lại đơn.
Trong các trường hợp trong đơn khởi kiện, các chủ thể là người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trong trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán có quyền trả lại đơn khởi kiện cho các chủ thể đó.
Trường hợp thứ bảy: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
Trong trường hợp các chủ thể là người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để khi cần thiết sẽ sử dụng làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Cũng cần lưu ý rằng, khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán sẽ phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời sẽ phải có trách nhiệm gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho các chủ thể là người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.