Tội quấy nhiễu nhân dân được quy định tại Điều 415 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong những tội danh đặc thù trong lĩnh vực quân sự nhằm xử lý những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vị trí trong quân đội để gây phiền hà, xúc phạm, sách nhiễu nhân dân. Hành vi này không chỉ vi phạm kỷ luật quân đội mà còn làm tổn hại đến uy tín quân đội và mối quan hệ gắn bó quân dân - vốn là nền tảng của sức mạnh quốc phòng toàn dân.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội quấy nhiễu nhân dân:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội quấy nhiễu nhân dân:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội quấy nhiễu nhân dân:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội quấy nhiễu nhân dân:
- 5 5. Phân biệt với Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
- 6 6. Nguyên nhân, khó khăn và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa Tội quấy nhiễu nhân dân:
1. Khái quát về Tội quấy nhiễu nhân dân:
1.1. Khái niệm:
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, kỷ luật và quan hệ quân dân luôn là nền tảng tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào lực lượng vũ trang. Tuy nhiên vẫn còn những trường hợp quân nhân, cán bộ, chiến sĩ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, có hành vi quấy nhiễu, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân làm ảnh hưởng đến uy tín của quân đội và mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân với dân. Để xử lý nghiêm và phòng ngừa các hành vi này, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định Tội quấy nhiễu nhân dân tại Điều 415 nhằm bảo vệ danh dự, quyền lợi của nhân dân và giữ nghiêm kỷ luật trong quân đội.
Như vậy: “Tội quấy nhiễu nhân dân là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ quân sự được giao để gây phiền hà, sách nhiễu, đe dọa, vòi vĩnh hoặc làm khó dễ nhân dân, trái với chức năng, nhiệm vụ của quân đội nhân dân. Hành vi này có thể thể hiện qua việc yêu cầu trái phép về vật chất, can thiệp trái quy định vào công việc dân sự, gây áp lực, cản trở, hoặc làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc ý thức coi thường kỷ luật, đạo đức quân nhân.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất, về phương diện pháp lý, quy định về Tội quấy nhiễu nhân dân là biện pháp hình sự đặc biệt nhằm bảo vệ nguyên tắc quân đội nhân dân phục tùng Đảng, Nhà nước và nhân dân; từ đó đảm bảo mọi quân nhân đều phải hành xử đúng pháp luật, đúng chức năng bảo vệ nhân dân.
- Thứ hai, về phương diện chính trị xã hội, Tội quấy nhiễu nhân dân có ý nghĩa giữ vững mối quan hệ gắn bó quân dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào lực lượng vũ trang, ngăn chặn tình trạng lợi dụng quân hàm, quyền hạn để nhũng nhiễu, làm tổn hại danh dự, uy tín của quân đội nhân dân Việt Nam.
- Thứ ba, về phương diện giáo dục phòng ngừa, việc xử lý nghiêm các hành vi quấy nhiễu nhân dân góp phần nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật, đạo đức công vụ, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, chiến sĩ; đồng thời răn đe, cảnh tỉnh đối với những người có nguy cơ vi phạm.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội quấy nhiễu nhân dân hiện nay đang được quy định tại Điều 415 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có hành vi quấy nhiễu nhân dân đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Lôi kéo người khác phạm tội;
c) Trong khu vực có chiến sự;
d) Trong khu vực đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội quấy nhiễu nhân dân:
2.1. Khách thể:
Tội quấy nhiễu nhân dân xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ kỷ luật, trật tự trong quân đội nhân dân và mối quan hệ đoàn kết quân dân – vốn là nguyên tắc nền tảng của quân đội cách mạng.
Đồng thời, hành vi này còn ảnh hưởng đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, làm giảm uy tín của lực lượng vũ trang trong mắt quần chúng.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi quấy nhiễu nhân dân. Tức là xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, tài sản, phong tục, tập quán hoặc đời sống bình thường của nhân dân.
Hành vi này có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Đe dọa, hạch sách, chửi bới, gây khó dễ, đánh người, phá phách hoặc có lời nói, việc làm xúc phạm, cản trở đời sống, sinh hoạt của nhân dân tại nơi đóng quân hoặc trong phạm vi hoạt động quân sự.
Tội phạm chỉ được truy cứu khi người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật về hành vi quấy nhiễu nhân dân mà còn tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là dấu hiệu bắt buộc để xác định trách nhiệm hình sự nhằm phân biệt với hành vi vi phạm kỷ luật thông thường trong quân đội.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm là quân nhân. Bao gồm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang phục vụ trong lực lượng vũ trang hoặc người được huy động, trưng dụng làm nhiệm vụ quân sự theo quy định.
Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội quấy nhiễu nhân dân được thực hiện với lỗi cố ý.
Người thực hiện hành vi vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng xấu đến nhân dân và kỷ luật quân đội nhưng vẫn thực hiện. Có thể xuất phát từ động cơ vụ lợi, thói cậy quyền hoặc coi thường kỷ luật, pháp luật quân đội.
3. Khung hình phạt của Tội quấy nhiễu nhân dân:
Tội quấy nhiễu nhân dân theo Điều 415 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Tội danh này không quy định hình phạt bổ sung.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội quấy nhiễu nhân dân:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội quấy nhiễu nhân dân được quy định tại khoản 2 Điều 415 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Là chỉ huy hoặc sĩ quan: Đây là tình tiết phản ánh địa vị và trách nhiệm đặc biệt của người phạm tội trong quân đội. Chỉ huy hoặc sĩ quan là những người được giao quyền lãnh đạo, quản lý và giáo dục cấp dưới, phải gương mẫu chấp hành kỷ luật, giữ nghiêm quan hệ quân dân. Khi những người ở vị trí này lợi dụng chức vụ, quyền hạn để quấy nhiễu nhân dân thì hành vi không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm mất uy tín của quân đội, gây bất bình trong nhân dân và ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân dân. Vì vậy, pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng của Tội quấy nhiễu nhân dân; áp dụng khung hình phạt từ 02 đến 07 năm tù, thể hiện sự nghiêm khắc đối với người có chức vụ mà suy thoái phẩm chất, lợi dụng vị trí để gây phiền hà cho dân.
- Lôi kéo người khác phạm tội: Tình tiết này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội do có tính chất tổ chức hoặc kích động, làm mở rộng phạm vi và hậu quả của tội phạm. Người phạm tội không chỉ tự mình quấy nhiễu nhân dân mà còn xúi giục, dụ dỗ, ép buộc hoặc lôi kéo người khác cùng thực hiện hành vi vi phạm, làm cho tội phạm trở nên có tính hệ thống, gây mất trật tự, kỷ cương và làm xấu hình ảnh của lực lượng quân đội.
- Trong khu vực có chiến sự: Phạm tội trong khu vực có chiến sự là tình tiết tăng nặng đặc biệt nghiêm trọng bởi khi đất nước đang có chiến sự, mọi lực lượng vũ trang đều phải tập trung cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an toàn cho nhân dân và hậu phương. Hành vi quấy nhiễu nhân dân trong hoàn cảnh này không chỉ làm giảm niềm tin của nhân dân vào quân đội mà còn ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu, gây bất ổn hậu phương quân đội và làm suy yếu tiềm lực quốc phòng.
- Trong khu vực đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp: Tình trạng khẩn cấp được ban bố khi đất nước hoặc một khu vực nhất định đang đối mặt với nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội hoặc thiên tai, dịch bệnh quy mô lớn. Trong bối cảnh đó, mọi công dân (đặc biệt là quân nhân) phải chấp hành nghiêm quy định, phối hợp cùng chính quyền bảo vệ nhân dân. Hành vi quấy nhiễu, gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân trong thời điểm này là vô kỷ luật, thiếu ý thức trách nhiệm và có thể gây hoang mang cũng như cản trở hoạt động ứng phó của Nhà nước.
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết phân hóa trách nhiệm hình sự theo hậu quả và phản ánh mức độ nguy hiểm thực tế của hành vi phạm tội. Hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng có thể là làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của nhiều người dân; gây mất đoàn kết quân dân; làm suy giảm uy tín của đơn vị quân đội; hoặc ảnh hưởng đến an ninh, trật tự khu vực. Trong trường hợp hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì hành vi vi phạm còn có thể kích động phản ứng tiêu cực trong cộng đồng dân cư cũng như làm xấu hình ảnh quân đội nhân dân Việt Nam.
5. Phân biệt với Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
Tiêu chí | Tội quấy nhiễu nhân dân (Điều 415 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ (Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Xâm phạm chế độ kỷ luật, trật tự trong quân đội và mối quan hệ đoàn kết quân dân, gây tổn hại đến uy tín và hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. | Xâm phạm nguyên tắc sử dụng đúng đắn, hợp lý nhu cầu quân sự và tài sản quốc phòng, ảnh hưởng đến quản lý tài sản, ngân sách và vật tư của quân đội. |
Mục đích bảo vệ của điều luật | Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo đảm quân đội luôn vì dân, không gây phiền hà hoặc nhũng nhiễu trong khi thực hiện nhiệm vụ. | Nhằm ngăn chặn hành vi lợi dụng danh nghĩa “nhu cầu quân sự” để xâm phạm tài sản, tránh tình trạng tham ô hoặc sử dụng sai mục đích nguồn lực quốc phòng. |
Hành vi khách quan | Có hành vi quấy nhiễu nhân dân, thể hiện qua việc đe dọa, hạch sách, xúc phạm, gây khó dễ, đòi hỏi lợi ích vật chất hoặc làm phiền dân. | Có hành vi vượt quá phạm vi cần thiết của nhu cầu quân sự, như huy động, sử dụng, chiếm dụng tài sản, phương tiện, nhân lực… trái quy định, gây thiệt hại về tài sản. |
Hậu quả pháp lý của hành vi | Hậu quả có thể là thiệt hại tinh thần, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của quân đội, mối quan hệ quân – dân, hoặc hậu quả vật chất gián tiếp (nếu có). | Hậu quả mang tính vật chất cụ thể, được định lượng theo giá trị thiệt hại về tài sản gây ra cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. |
Chủ thể của tội phạm | Chủ thể đặc biệt – quân nhân, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ hoặc người phối thuộc với quân đội. | Cũng là chủ thể đặc biệt, nhưng giới hạn ở người đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quân sự hoặc quản lý, điều hành hoạt động quân sự. |
Mặt chủ quan của tội phạm | Lỗi cố ý trực tiếp là chủ yếu; người phạm tội biết rõ hành vi của mình gây phiền hà, xúc phạm nhân dân nhưng vẫn thực hiện. | Lỗi cố ý hoặc vô ý. Tùy từng trường hợp: có thể do cố tình lợi dụng quyền hạn hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm, quản lý yếu kém. |
Mức hình phạt chính | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
6. Nguyên nhân, khó khăn và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa Tội quấy nhiễu nhân dân:
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình hiện đại hóa quân đội và mở rộng nhiệm vụ quân sự, tình trạng vi phạm kỷ luật, đạo đức quân nhân liên quan đến hành vi quấy nhiễu nhân dân vẫn còn xảy ra, tuy không phổ biến nhưng gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Một số vụ việc điển hình cho thấy một bộ phận nhỏ cán bộ, chiến sĩ, thậm chí cả sĩ quan, lợi dụng chức vụ, quân hàm hoặc danh nghĩa quân đội để gây phiền hà, hạch sách, vòi vĩnh hoặc cư xử thiếu chuẩn mực với người dân. Hành vi “quấy nhiễu nhân dân” có thể diễn ra khi thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn dân cư, khu vực kinh tế – quốc phòng, hay trong công tác kiểm tra, quản lý địa bàn đóng quân. Điển hình như:
- Đòi hỏi lợi ích vật chất khi người dân có nhu cầu liên hệ và nhờ hỗ trợ trong công tác quân sự, quốc phòng;
- Ứng xử thô bạo, thiếu tôn trọng nhân dân trong quá trình làm nhiệm vụ;
- Lợi dụng danh nghĩa quân đội để can thiệp trái phép vào việc dân sự, thậm chí đe dọa và gây sức ép nhằm vụ lợi.
Phần lớn các trường hợp vi phạm được xử lý bằng biện pháp kỷ luật nội bộ, song trong một số vụ việc gây hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hình ảnh quân đội, các cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân đã khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 415 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, số vụ án được xét xử theo tội danh này chưa nhiều do đa phần được xử lý ở mức kỷ luật hoặc chuyển hóa thành tội danh khác khi có yếu tố vụ lợi rõ ràng (như Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015).
6.1. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi phạm tội:
Có thể chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi quấy nhiễu nhân dân trong môi trường quân đội như sau:
a. Nguyên nhân chủ quan:
- Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, ý thức kỷ luật và tinh thần phục vụ nhân dân ở một bộ phận nhỏ quân nhân;
- Tâm lý cậy quyền, lạm dụng danh nghĩa quân đội, cho rằng mình “có vị thế” nên xem thường người dân;
- Thiếu hiểu biết hoặc coi nhẹ quy định pháp luật về quan hệ quân dân, dẫn đến hành vi ứng xử không đúng mực.
b. Nguyên nhân khách quan:
- Công tác quản lý, giáo dục kỷ luật trong một số đơn vị còn lỏng lẻo, chưa thường xuyên kiểm tra giám sát việc chấp hành điều lệnh;
- Một số chỉ huy chưa kịp thời phát hiện, chấn chỉnh vi phạm nhỏ để đến khi tích tụ thành hành vi nghiêm trọng mới xử lý;
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong quân đội tuy được quan tâm nhưng chưa được triển khai thường xuyên, liên tục (đặc biệt ở các đơn vị cơ sở, vùng sâu vùng xa).
6.2. Khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật:
Việc xử lý hình sự đối với tội quấy nhiễu nhân dân trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn do:
- Ranh giới giữa hành vi vi phạm kỷ luật và hành vi phạm tội chưa thật rõ ràng. Nhiều trường hợp hành vi gây phiền hà, chửi bới, xúc phạm nhân dân được cho là “thiếu văn hóa quân nhân” nên chỉ xử lý kỷ luật và chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Khó xác định hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là khi hành vi chưa gây thiệt hại vật chất cụ thể mà chủ yếu là tổn thương tinh thần, uy tín hoặc mất lòng tin của nhân dân;
- Thiếu thống nhất trong nhận thức pháp lý giữa các cấp chỉ huy và cơ quan tiến hành tố tụng quân sự. Có đơn vị coi đây là hành vi vi phạm điều lệnh nội bộ, trong khi đơn vị khác xem xét xử lý hình sự nếu tái phạm hoặc ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa bàn;
- Chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội khó thu thập. Các hành vi quấy nhiễu nhân dân thường diễn ra nhanh, không có dấu vết vật chất và người dân đôi khi ngại tố cáo do tâm lý e dè hoặc tôn trọng quân đội, khiến việc điều tra gặp nhiều khó khăn.
6.3. Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa và xử lý:
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa và xử lý tội quấy nhiễu nhân dân, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật và đạo đức quân nhân;
- Siết chặt công tác kiểm tra, giám sát nội bộ;
- Phân định rõ ranh giới giữa vi phạm kỷ luật và tội phạm;
- Bảo vệ người tố cáo và khuyến khích giám sát của nhân dân. Khi người dân phản ánh hành vi quấy nhiễu, cơ quan chức năng phải tiếp nhận, bảo vệ và xử lý nghiêm minh;
- Nâng cao trách nhiệm của người chỉ huy. Nếu để xảy ra vi phạm trong đơn vị mà không kịp thời ngăn chặn thì người chỉ huy cũng phải chịu trách nhiệm liên đới, coi đây là tiêu chí đánh giá phẩm chất lãnh đạo cá nhân.
THAM KHẢO THÊM: