Hiện nay theo phân loại tội phạm theo mức độ pháp luật nước ta có 4 loại tội phạm. Tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là hai trong số đó. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tội phạm rất nghiêm trọng là gì? Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là gì?
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về tội phạm:
Ta hiểu về tội phạm như sau:
Hiểu một cách đơn giản thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và đã được quy định trong
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do các chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, hành vi phạm tội của các chủ thể này đã xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm trực tiếp tơú chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm đến nhiều những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật hình sự các chủ thể sẽ cần phải bị xử lý hình sự.
Cũng cần lưu ý đối với những hành vi tuy nhận thấy có dấu hiệu của tội phạm nhưng thực tế thì tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì ta nhậ thấy đây không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác căn cứ theo các quy định tại các văn bản pháp luật khác.
2. Tội phạm rất nghiêm trọng là gì?
Ta hiểu về tội phạm rất nghiêm trọng như sau:
Tội phạm rất nghiêm trọng được định nghĩa cụ thể là tội phạm có tính gây nguy hại rất lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt được quy định đối với tội phạm rất nghiêm trọng này đó là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù.
Ta nhận thấy rằng, tội phạm rất nghiêm trọng là một trong bốn nhóm tội được phân loại trong Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì sẽ có hai dấu hiệu được sử dụng nhằm mục đích để có thể giúp xác định tội phạm rất nghiêm trọng. Đó chính là tính nguy hại rất lớn cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù, trong đó dấu hiệu thứ nhất tính nguy hại rất lớn cho xã hội có tính quyết định, quy định khung hình phạt là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù là dấu hiệu thứ hai.
Quy định như trên đã giúp phân biệt với tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng.
Ta nhận thấy, trước
Ta nhận thấy, căn cứ theo quy định tại
3. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là gì?
Ta hiểu về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như sau:
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì ta hiểu tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được hiểu cơ bản là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Riêng đối với tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, việc phân loại tội phạm sẽ căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự.
Quy định về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
– Tội giết người là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Giết người được hiểu là hành vi tước đoạt mạng sống của người khác trái pháp luật. Tội giết người trong giai đoạn hiện nay đã được quy định cụ thể tại Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.
Tội phạm giết người theo quy định của pháp luật hình sự thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với mức án cao nhất là tử hình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Giết 02 người trở lên; Giết người dưới 16 tuổi; Giết phụ nữ mà biết là có thai; Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; Thực hiện tội phạm một cách man rợ; Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; Thuê giết người hoặc giết người thuê; Có tính chất côn đồ; Có tổ chức; Tái phạm nguy hiểm; Vì động cơ đê hèn.
Ta nhận thấy, đối với tội giết người, chủ thể là người phạm tội biết rõ hành vi của mình là tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật và hậu quả là chết người xảy ra.
– Tội hiếp dâm là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Hiếp dâm được hiểu cơ bản chính là hành vi giao cấu với người khác trái với ý muốn của họ. Hiếp dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp nhân phẩm của người khác. Luật hình sự Việt Nam luôn coi hiếp dâm là tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm nhân thân.
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Người phạm tội hiếp dâm thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
+ Người phạm tội hiếp dâm gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
+ Người phạm tội hiếp dâm biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
+ Người phạm tội hiếp dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Như vậy, đối với hành vi hiếp dâm thuộc các trường hợp được nêu trên thì người phạm tội hiếp dâm bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
– Tội mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, các chủ thể thực hiện mua bán trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Các chủ thể thực hiện bán trái phép chất ma túy cho người khác (không kể có thu lợi hay không).
+ Các chủ thể mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
+ Các chủ thể xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
– Tội tham ô tài sản là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Tội tham ô tài sản đã được quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, ta nhận thấy, tham ô tài sản là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Hành vi các chủ thể tham ô tài sản đã tác động đến tài sản mà mà các chủ thể là những người phạm tội có trách nhiệm quản lý. Tài sản này bao gồm tài sản của nhà nước giao cho các cơ quan, tổ chức trong nhà nước hoặc là tài sản của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.
Tội tham ô tài sản cũng chính là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, chủ thể là người phạm tội thực hiện hành vi tham ô tài sản của mình với lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù với mức cao nhất lên đến 20 năm:
+ Người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
+ Người phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
+ Người phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Hành vi phạm tội dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
Ta nhận thấy rằng, việc phân loại tội phạm trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa to lớn trong hoạt động thực hiện công tác điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan nhà nước
Căn cứ pháp lý sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.