Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Tội phạm phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Mục lục bài viết
1. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là gì?
Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 9
Đây là loại tội phạm với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao nhất nên chế tài xử lý cũng nặng nhất với việc nhà nước tước đi quyền được sống của người bị kết án. Tử hình chỉ xuất hiện ở một số tội cụ thể như tội giết người, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội sản xuất, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, tội tham ô, nhận hối lộ,…
2. Quy định về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
2.1. Tội giết người:
Giết người là hành vi tước đoạt mạng sống của người khác trái pháp luật. Tội giết người được quy định tại Điều 123
– Giết 02 người trở lên;
– Giết người dưới 16 tuổi;
– Giết phụ nữ mà biết là có thai;
– Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
– Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
– Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
– Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
– Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
– Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
– Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
– Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
– Thuê giết người hoặc giết người thuê;
– Có tính chất côn đồ;
– Có tổ chức;
– Tái phạm nguy hiểm;
– Vì động cơ đê hèn.
2.2. Tội hiếp dâm:
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141
– Nhóm hành vi thứ nhất là nhóm hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác.
Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:
+ Người bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật… dẫn đến không thể chống cự được);
+ Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác…dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).
Thủ đoạn khác ở đây có thể là đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
– Nhóm hành vi thứ hai là nhóm hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
Theo đó, giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
Còn hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
+ Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
+ Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Tội phạm hiếp dâm thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
– Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
2.3. Tội cướp tài sản:
Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015. Hành vi khách quan của tội cướp tài sản là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Tội cướp tài sản không có án tử hình mà mức hình phạt cao nhất được áp dụng là tù chung thân nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
– Làm chết người;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng còn xuất hiện tại Khoản 3 Điều 168 Bộ luật hình sự với mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
– Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
2.4. Tội mua bán trái phép chất ma túy:
Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó, mua bán trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không kể có thu lợi hay không).
+ Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
+ Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
+ Tàng chữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác (nếu không có mục đích bán lại cho người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy).
+ Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác (nếu không có mục đích bán lại cho người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy).
+ Dùng chất ma túy (thay cho tiền) nhằm trao đổi thanh toán trái phép (chẳng hạn mua hàng hóa rồi dùng chất ma túy để trả thay vì trả tiền).
+ Dùng tài sản không phải là tiền (như vàng, xe gắn máy…) nhằm đem trao đổi, thanh toán…lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác.
Tội mua bán trái phép chất ma túy thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;
– Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng 100 gam trở lên;
– Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng 75 kilôgam trở lên;
– Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
– Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
– Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
– Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
– Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm a đến Điểm g Khoản này.
2.5. Tội tham ô tài sản:
Tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó, tham ô tài sản là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xuất hiện ở tội tham ô tài sản với 2 Khoản:
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù với mức cao nhất lên đến 20 năm:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
+ Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì có mức cao nhất của khung hình phạt lên đến tử hình:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
+ Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Ngoài những tội phạm trên đây thì trong Bộ luật hình sự còn rất nhiều loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác xâm phạm đến đa dạng các quan hệ xã hội trong đời sống.
Có thể thấy, sự phân hóa tội phạm là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có liên quan các quy định thể hiện sự phân hóa trong chống các loại tội phạm khác nhau. Đó là căn cứ pháp lý thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi áp dụng luật hình sự.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật hình sự 2015.