Ngoài những quy định việc xử lý hình sự đối với những tội phạm trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thì còn có quy định cụ thể về việc xử lý đối với những đối tượng không trực tiếp thực hiện hành vi xâm hại như tội không tố giác tội phạm.
Mục lục bài viết
1. Không tố giác tội phạm là gì?
Trong quy định của pháp luật hiện hành, mặc dù không có quy định cụ thể về việc giải thích khái niệm “không tố giác tội phạm” theo dạng định nghĩa (ví dụ như: “không tố giác tội phạm” là….), tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Điều 19
Không tố giác tội phạm là việc biết mà không báo, phát hiện hành vi phạm tội mà coi như không biết, im lặng, không trình báo cho cơ quan chức năng được biết để xử lý. Việc phát hiện tội phạm có thể diễn ra khi người phạm tội đang trong quá trình chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội hoặc trong khi hành vi phạm tội đang được thực hiện hoặc đã thực hiện xong.
“Tố giác tội phạm” được xem xét như một nghĩa vụ bắt buộc của công dân phát sinh ngay sau khi một người biết, phát hiện về việc thực hiện hành vi phạm tội của người khác. Nó thể hiện trách nhiệm của công dân trong việc phòng ngừa, đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Khi một người tình cờ hoặc bằng cách nào đó biết/chứng kiến hành vi phạm tội của người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện xong, mặc dù họ có đủ điều kiện để thực hiện việc tố giác tội phạm nhưng đã cố tình không tố giác tội phạm, hay trình báo sự việc lên cơ quan có thẩm quyền thì trường hợp này, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “không tố giác tội phạm” trừ một số trường hợp nhất định theo quy định của khoản 2, 3 Điều 19, Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015.
2. Cấu thành tội phạm của tội không tố giác tội phạm:
Về Tội không tố giác tội phạm, hiện nay, trong quy định pháp luật hình sự hiện hành, tội này được quy định cụ thể tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 138 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 2015. Trên cơ sở quy định về tội này trong các văn bản pháp luật hình sự nêu trên, có thể xác định cấu thành tội phạm của Tội không tố giác tội phạm như sau:
- Về mặt khách quan của Tội không tố giác tội phạm:
Trên phương diện lý luận, cấu thành tội phạm được hiểu như các mặt, các bộ phận tạo nên, làm nên một tội phạm nói chung mà hiểu đơn giản là những dấu hiệu pháp lý thể hiện đặc trưng, bản chất của một tội phạm, là cơ sở phản ánh đặc tính riêng của từng tội phạm trong tương quan so sánh với nhau. Trong các nội dung của cấu thành tội phạm, mặt khách quan được hiểu như là “vỏ bọc” bên ngoài, là cách thể hiện bên ngoài của một tội phạm mà chúng ta có thể xác định rõ nhất trong sự tương quan với thế giới khách quan. Mặt khách quan của một tội phạm nói chung thường bao gồm các nội dung như: hành vi khách quan – hành vi phạm tội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, và mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa hành vi và hậu quả. Đồng thời, tùy vào từng tội phạm mà mặt khách quan còn các nội dung khác như: thời gian phạm tội; các công cụ, phương tiện dùng để thực hiện tội phạm (ví dụ: dao, kiếm, vũ khí khác, phương tiện…), địa điểm thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: địa điểm – hiện trường vụ án giết người, hiện trường phi tang thi thể, hung khí..), thủ đoạn phạm tội (ví dụ như là trói người để hành hạ, giết người…).
Trên cơ sở nội dung phân tích ở trên, có thể thấy, đối với Tội không tố giác tội phạm, mặt khách quan được thể hiện như sau:
Về hành vi phạm tội trong Tội không tố giác tội phạm: Một người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm nếu như họ có hành vi không “tố giác”, tức là không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết về việc phạm tội của người khác khi họ là người phát hiện và biết rõ hành vi phạm tội này, dù hành vi phạm tội đó đang ở giai đoạn chuẩn bị thực hiện, đã được thực hiện hay đang trong quá trình thực hiện.
Trong trường hợp này, hành vi phạm tội được thể hiện dưới dạng “không hành động”, tức là không thực hiện hành vi “tố giác”, hay “trình báo” với cơ quan thẩm quyền khi phát giác về sự việc phạm tội.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào, cứ biết về việc phạm tội của người khác mà không báo, không tố giác cho cơ quan có thẩm quyền biết là đều được xác định là phạm tội “không tố giác tội phạm” theo quy định của Bộ luật hình sự. Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 138 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 2015 thì người thực hiện hành vi không “tố giác” hành vi phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm nếu tội phạm mà họ không tố giác thuộc một trong các tội sau đây:
Các tội được quy định trong Bộ luật hình sự tại các Điều 108, đến Điều 123, Điều 134, Điều 207, Điều 299, Điều 300, đến Điều 303 và Điều 324, Điều 109, các khoản 2, 3 và 4 Điều 141, Điều 142, Điều 144, khoản 2 và khoản 3 Điều 146, các khoản 1, 2 và 3 Điều 150, các điều 151, 152, 153 và 154; Điều 168, Điều 169, các khoản 2, 3 và 4 Điều 173, các khoản 2, 3 và 4 Điều 174, các khoản 2, 3 và 4 Điều 175, các khoản 2, 3 và 4 Điều 178; Khoản 3 và khoản 4 Điều 188, khoản 3 Điều 189, khoản 2 và khoản 3 Điều 190, khoản 2 và khoản 3 Điều 191, khoản 2 và khoản 3 Điều 192, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 193, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 194, các khoản 2, 3 và 4 Điều 195, khoản 2 và khoản 3 Điều 196, khoản 3 Điều 205, các khoản 2, 3 và 4 Điều 206, Điều 208, khoản 2 và khoản 3 Điều 219, khoản 2 và khoản 3 Điều 220, khoản 2 và khoản 3 Điều 221, khoản 2 và khoản 3 Điều 222, khoản 2 và khoản 3 Điều 223, khoản 2 và khoản 3 Điều 224; Khoản 2 và khoản 3 Điều 243; Điều 248, 249, 250, 251, 252 và 253, khoản 2 Điều 254, các điều 255, 256, 257 và 258, khoản 2 Điều 259; các khoản 2, 3 và 4 Điều 265, các điều 282,, các khoản 2, 3 và 4 Điều 305, các khoản 2, 3 và 4 Điều 309, các khoản 2, 3 và 4 Điều 311, khoản 2 và khoản 3 Điều 329; Các khoản 2, 3 và 4 Điều 353, các khoản 2, 3 và 4 Điều 354, các khoản 2, 3 và 4 Điều 355, khoản 2 và khoản 3 Điều 356, các khoản 2, 3 và 4 Điều 357, các khoản 2, 3 và 4 Điều 358, các khoản 2, 3 và 4 Điều 359, các khoản 2, 3 và 4 Điều 364, các khoản 2, 3 và 4 Điều 365; khoản 3 và khoản 4 Điều 373, khoản 3 và khoản 4 Điều 374, khoản 2 Điều 386; điều 421, 422, 423, 424 và 425.
Hành vi phạm tội của tội không tố giác tội phạm thể hiện thái độ hờ hững, vô tâm, phó mặc trước các quan hệ xã hội đang bị tội phạm xâm hại, dẫn đến việc gây khó khăn trong việc phát hiện, ngăn ngừa, xử lý hành vi phạm tội, có thể dẫn đến việc bỏ sót tội phạm.
- Về mặt chủ quan của Tội không tố giác tội phạm:
Nếu mặt khách quan là cái mà tội phạm biểu hiện ra bên ngoài để chúng ta có thể nhận biết ngay được về tội phạm này, thì mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm là những gì ẩn giấu bên trong, thể hiện bản chất của một tội phạm, mà chúng ta phải phân tích, điều tra, liên hệ với các yếu tố khác mới xác định chính xác được. Mặt chủ quan của tội phạm thường phản ánh qua các khía cạnh tâm lý bên trong của tội phạm như yếu tố động cơ phạm tội, mức độ lỗi, mục đích phạm tội, tâm lý tội phạm… Không có tội phạm nào thực hiện hành vi phạm tội mà không thể hiện những yếu tố chủ quan nêu trên, ví dụ như mục đích hay động cơ phạm tội.
Về vấn đề này, trong Tội không tố giác tội phạm, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể là hành vi “không tố giác” tội phạm với lỗi cố ý, tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được rằng việc “không tố giác tội phạm” của mình sẽ gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng đến việc cơ quan công an phát hiện, ngăn ngừa và phòng chống tội phạm, dẫn đến việc hành vi phạm tội có thể hoàn thành trên thực tế, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm… nhưng họ vẫn cố tình không khai báo, không trình báo cho cơ quan có thẩm quyền được biết. Việc không khai báo, không tố giác tội phạm của người này đã thể hiện thái độ thờ ơ, lãnh đạm trước những hành vi phạm tội đang xảy ra, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, và việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Khi xác định mặt chủ quan của Tội không tố giác tội phạm là lỗi cố ý không thực hiện hành vi “tố giác”, cũng có nghĩa “việc không tố giác tội phạm” xuất phát từ mong muốn chủ quan của người phạm tội khi họ hoàn toàn có đủ điều kiện để thực hiện hành động tố giác tội phạm, nhưng cố tình không thực hiện. Điều này, cũng loại trừ khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự với những người phát hiện ra hành vi phạm tội của người khác nhưng đã không tố giác vì không có đủ căn cứ, hay chứng cứ để xác định hành vi phạm tội sẽ/ hoặc là đã được thực hiện, hoặc không có đủ điều kiện, cơ hội để tố giác lên cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội này.
Ví dụ: Anh A và anh B thường xuyên có nhiều mâu thuẫn, cãi vã, và có nhiều ân oán, hận thù cá nhân. Trong một lần, vô tình đi qua con đường vắng lên núi, vô tình anh A nhìn thấy anh B đang cãi vã với người khác- là anh C và bị anh C cầm dao đâm liên tiếp vào người dẫn đến tử vong tại chỗ. Tất cả quá trình cãi vã cũng như hành vi giết người của anh C, anh A đều thấy, nhưng do “núp”, trốn ở lùm cây phía xa nên không bị anh C phát hiện. Anh A ban đầu đã định trình báo lên cơ quan công an nhưng sau đó, nghĩ lại việc anh B chết cũng là điều mà anh A muốn, nên anh A đã quyết định giữ im lặng và coi như chưa từng nhìn thấy và tự trở về nhà sau khi anh C đã rời đi.
Trường hợp này, có thể thấy mặc dù anh A không trực tiếp giết hay tham gia vào việc giết anh B nhưng anh A là người đã chứng kiến, và biết rõ về việc anh C giết anh A. Việc anh A không trình báo lên cơ quan công an về hành vi phạm tội của anh C đã làm ảnh hưởng đến việc ngăn ngừa, xử lý đối với tội phạm – ở đây là anh C, có thể dẫn đến việc tội phạm bỏ trốn. Hành vi này hoàn toàn xuất phát từ mong muốn chủ quan của anh A, và cũng không bị cản trở hay ngăn cản, đe dọa bởi bất kỳ ai nên hành vi của anh A có thể bị truy cứu về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 được xác định ở trên.
Giả sử vẫn là tình huống này, tuy nhiên, anh A định chạy đi báo cơ quan công an vì không hề muốn anh B chết dù hai người có mâu thuẫn. Không may, việc anh A nhìn thấy tất cả mọi sự việc xảy ra đã bị anh C phát hiện. Anh C đã đe dọa và định giết luôn anh A để “bịt đầu mối”, vì anh C tin rằng “chỉ có người chết mới biết giữ bí mật”, tuy nhiên lợi dụng địa hình, và khoảng cách nên chạy trốn được. Tuy nhiên, vì lo sợ cho tính mạng của mình và vì anh C đe dọa sẽ giết cả người thân của anh A nên anh A đã im lặng, bỏ trốn mà không trình báo lên cơ quan có thẩm quyền về việc anh C giết người.
Có thể sau này, cơ quan công an phát hiện và biết về việc anh A từng có mặt tại hiện trường vụ việc nhưng có thể thấy, trong tình huống này, anh A không cố ý trong việc “không tố giác tội phạm” hơn nữa do bị đe dọa về tinh thần, đánh cược cả tính mạng của người thân nên anh A không có đủ can đảm và cơ hội để thực hiện việc trình báo lên cơ quan công an để tố giác về hành vi phạm tội của anh C. Trường hợp này, chưa đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh A về Tội không tố giác tội phạm.
- Về mặt khách thể của Tội không tố giác tội phạm:
Trên cơ sở quy định của pháp luật, có thể xác định khách thể của Tội không tố giác tội phạm được xác định là quan hệ giữa công dân với cơ quan có thẩm quyền trong quá trình phòng, chống tội phạm. Cụ thể: Hành vi không tố giác tội phạm là hành vi vi phạm trách nhiệm bắt buộc của công dân trong phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm, đồng thời làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền như Công an trong việc tiếp nhận thông tin, phát hiện tội phạm.
- Về mặt chủ thể của Tội không tố giác tội phạm:
Chủ thể của Tội không tố giác tội phạm được xác định là bất kỳ người nào đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015, thì chủ thể đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, được xác định là đối tượng chủ thể của Tội không tố giác tội phạm là những người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 thì một số người không được xác định là chủ thể của Tội không tố giác tội phạm mặc dù họ có hành vi phát hiện và biết rõ việc phạm tội chuẩn bị xảy ra, đang xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng cố tình không tố giác tội phạm lên cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể, đó là những chủ thể sau:
– Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ/chồng của người phạm tội, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, và các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong đó,
Các tội đặc biệt nghiêm trọng, theo quy định tại Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015 được xác định là những tội có tính chất phạm tội và mức độ nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, quan hệ xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng cho tội ấy mà Bộ luật hình sự quy định là trên 15 năm tù trở lên đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Trên cơ sở khái niệm này thì các tội đặc biệt nghiêm trọng khác, ngoài các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, được xác định theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 137 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015 được xác định ở trên.
Còn các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia được hiểu là những trường hợp tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hệ thống chính quyền, chủ quyền, sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị của mỗi quốc gia, mà cụ thể ở đây là đất nước Việt Nam và được quy định tại Chương XIII Bộ luật hình sự năm 2015 dưới các tội danh như: Tội phản bội Tổ quốc, Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Tội gián điệp, Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ, Tội phá rối an ninh, Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân…
Trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 được trích dẫn ở trên, trường hợp một người có hành vi phạm tội về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, hay các tội đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi được trích dẫn ở trên mà ông, bà, cha, mẹ hoặc con, cháu, anh chị em ruột hoặc vợ/chồng của người này biết về hành vi phạm tội của người này nhưng vì tình nghĩa vì lo lắng cho người phạm tội này mà cố ý không tố giác tội phạm mặc dù có đủ điều kiện để tố giác thì trường hợp này, những người thân này của người phạm tội này sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự.
– Người bào chữa nếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, họ phát hiện được hành vi phạm tội do người mà họ bào chữa – “thân chủ” của họ đã thực hiện hoặc đã tham gia cùng thực hiện nhưng cố tình không tố giác tội phạm lên cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp tội phạm mà họ không tố giác là các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia (được quy định tại chương XIII Bộ luật hình sự năm 2015) và các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015 được xác định ở trên.
Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đối với một trong các tội xâm phạm ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII và các tội theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi mà người bào chữa trong quá trình thực hiện việc bào chữa cho người phạm tội này đã phát hiện nhưng cố tình không tố giác tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi.
3. Mức hình phạt đối với người có hành vi phạm tội không tố giác tội phạm:
Căn cứ theo quy định Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 138 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 về Tội không tố giác tội phạm thì khi một người đáp ứng đầy đủ cấu thành của Tội không tố giác tội phạm, họ sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tuy nhiên, cũng theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi được xác định ở trên, trong trường hợp một người đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành của tội Không tố giác tội phạm, nhưng họ đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc có những biện pháp để hạn chế tác hại của tội phạm mà mình không tố giác thì tùy vào từng mức độ mà Tòa án có thể xem xét cho người này được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Như vậy, qua phân tích ở trên, có thể xác định, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 138 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 2015 nếu đáp ứng đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm nêu trên. Việc xác định các yếu tố của cấu thành tội phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tội phạm, để tránh việc nhầm lẫn, hay xác định sai hành vi phạm tội.