Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh là gì? Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh tên tiếng Anh là gì? Quy định của pháp luật về tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh?
Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh là một trong những tội danh được quy định tại
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự 2015
1. Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh là gì?
Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh là hành vi chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh chỉ cấu thành tội phạm nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị…
2. Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh tên tiếng Anh là gì?
Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh tên tiếng Anh là: “Failure to strictly follow orders”.
3. Quy định của pháp luật về tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh.
Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh được quy định tại 395 Bộ luật hình sự 2015, cụ thể:
” Điều 395. Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh
1. Người nào chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách lơ là, chậm trễ, tùy tiện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
(“Article 395. Failure to strictly follow orders
1. Any person follows an order given by a competent person in an inattentive, tardy, or arbitrary manner and as a result causes serious consequences shall face a penalty of up to 03 years’ community sentence or 06 – 36 months’ imprisonment.
2. This offence committed in any of the following cases shall carry a penalty of 03 – 10 years’ imprisonment:
a) The offence is committed in battle;
b) The offence is committed in a warzone;
c) The offence is committed during a rescue mission;
d) The offence is committed in time of emergency;
đ) The offence results in very serious consequences or extremely serious consequences.”)
– Khi quy định trách nhiệm hình sự cũng như nghiên cứu về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, vấn đề cơ bản và đầu tiên cần được giải quyết là phải đưa ra khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
– Tuy nhiên, BLHS nước ta quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nhưng lại không nêu định nghĩa về loại tội phạm này. Theo chúng tôi, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là một loại tội phạm được quy định trong BLHS. Do vậy, khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng bao gồm các những dấu hiệu chung của khái niệm tội phạm.
– Theo đó, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi và phải chịu hình phạt.
– Khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội hoặc khi có hoạt động quân sự. Mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại BLHS và những hành vi nguy hiểm này chỉ có thể xảy ra trong các hoạt động quân sự.
– Đó không chỉ bao gồm các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà còn cả những hành vi: vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của những người không phải là quân nhân như dân quân tự vệ, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội; vi phạm pháp luật quốc tế về chiến tranh như hành vi ngược đãi tù binh, hàng binh, hành vi tàn sát, chiếm đoạt hoặc hủy hoại tài sản của nhân dân trong khu vực có chiến sự.
– Chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm quân nhân và những người không phải là quân nhân (như dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội) thực hiện.
Các yếu tố cấu thành tội phạm
– Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
+ Có hành vi chấp hành mệnh lệnh một cách lơ là. Được hiểu là hành vi chấp hành mệnh lệnh một cách miễn cưỡng, chiếu lệ, qua loa… trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Có hành vi chấp hành mệnh lệnh một cách chậm trễ. Được hiểu là hành vi chấp hành không đúng thời gian quy định (kể từ khi bắt đầu và kết thúc việc thực hiện mệnh lệnh).
+ Có hành vi chấp hành mệnh lệnh một cách tùy tiện. Được hiểu là hành vi tự ý thay đổi những nội dung của mệnh lệnh bằng cách thêm hoặc bớt đi những nội dung trong mệnh lệnh được giao.
Như vậy, hành vi chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền một cách miễn cưỡng, qua loa, chấp hành không đúng thời gian quy định,… phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 395 Bộ luật Hình sự.
– Mặt khách thể: Hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ kỷ luật của quân đội.
– Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội này với lỗi cố ý.
– Mặt chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ quân nhân nào.
– Về hậu quả
+ Hành vi phạm tội nêu trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng. Được hiểu là trường hợp gây thiệt hại về tính mạng, gây thiệt hại về sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản (xem giải thích tương tự ở tội ra mệnh lệnh trái pháp luật).
+ Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về tính mạng, gây thiệt hại về sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản (xem giải thích tương tự tội chống mệnh lệnh).
– Với quy định về tội danh này thì đối tượng tác động của tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh là ” mệnh lệnh” của người chỉ huy hoặc cấp trên có thẩm quyền. Theo hướng dẫn thì ” mệnh lệnh” là văn bản của người chỉ huy trực tiếp hoặc của cấp trên có thẩm quyền được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng tín hiệu lệnh và bắt buộc cấp dưới phải chấp hành
Về hình phạt đối với tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh
“….thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
Hình phạt đối với tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh như sau:
– Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Được áp dụng trong trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan và chủ quan
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
+ Trong chiến đấu;
+ Trong khu vực có chiến sự;
+ Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
+ Trong tình trạng khẩn cấp;
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
– Theo quy định của Điều lệ quản lý bộ đội thì nghĩa vụ quân nhân phải là ” tuyệt đối phục tùng lãnh đạo, chỉ huy, chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên. Do đó, cần phân biệt rõ giữa mệnh lệnh và chỉ thị của người chỉ huy cấp trên. Nhìn chung thì mệnh lệnh và chỉ thị của người chỉ huy trực tiếp hoặc cấp trên có thẩm quyền đều có tính bắt buộc cấp dưới phải thi hành. Tuy nhiên, xét về mặt hình thức thì chỉ thị của cấp trên chưa chắc đã phải là mệnh lệnh, không chỉ bắt buộc đối với các đơn vị quân đội, mọi quân nhân mà cả những người không phải quân nhân nhưng có liên quan.
– Tội chống mệnh lệnh là hành vi công khai từ chối chấp hành mệnh lệnh hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy trực tiếp hoặc cấp trên có thẩm quyền. Mặt khách quan của tội chống mệnh lệnh thể hiện bởi hành vi: công khai từ chối chấp hành mệnh lệnh; cố ý không thực hiện mệnh lệnh được giao.
– Hai hành vi này tuy có điểm chung là hành vi được thực hiện một cách cố ý nhưng có sự khác nhau về hình thức biểu hiện. Hành vi công khai từ chối chấp hành mệnh lệnh thể hiện ở việc người nhận mệnh lệnh công khai từ chối hoặc có hành vi khác làm cho người giao mệnh lệnh biết ngay là mệnh lệnh của mình sẽ không được thực hiện. Còn hành vi cố ý không thực hiện mệnh lệnh được biểu hiện dưới dạng: không thực hiện những hành động được quy định trong mệnh lệnh; thực hiện những hành vi mà mệnh lệnh cấm; thực hiện mệnh lệnh không chính xác về mặt thời gian, địa điểm hoặc tính chất của hành động được ghi trong mệnh lệnh. Cho nên, mặc dù mệnh lệnh không được thực hiện nhưng người giao mệnh lệnh không biết, thậm chí còn tin là mệnh lệnh của mình sẽ được thực hiện
– Việc Điều 395 BLHS chỉ quy định “Người nào chống mệnh lệnh của người chỉ huy trực tiếp hoặc của cấp trên có thẩm quyền, thì bị phạt…” mà không mô tả hành vi chống mệnh lệnh là gì, theo chúng tôi là chưa chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, chưa khắc phục được bất cập tại Điều 250 BLHS. Chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về các tội xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng như sau:
– Tội chống mệnh lệnh cần được hoàn thiện theo hướng: bổ sung thêm các đối tượng tác động của tội phạm làn “quyết định, chỉ thị của người chỉ huy hoặc cấp trên có thẩm quyền;” và mô tả hành vi khách quan của tội phạm này là “công khai từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện quyết định, chỉ thị hoặc mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên có thẩm quyền.” Theo đó, tên tội danh cần được sửa đổi là “Tội chống mệnh lệnh, quyết định hoặc chỉ thị của người chỉ huy trực tiếp hoặc cấp trên có thẩm quyền”.