Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là gì? Quy định của pháp luật về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện và phải chịu hình phạt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội được coi là người không có năng lực trách nhiệm hình sự và có những chế tài riêng đối với họ. Vậy tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu như thế nào và được quy định ra sao trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Căn cứ pháp lý
1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác, làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điểu khiển hành vi của mình và do đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là gì?
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tên tiếng Anh là: “Lack of criminal capacity”.
3. Quy định của pháp luật về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Tình trạng không có trách nhiệm hình sự ( TNHS) được quy định tại Điều 21
“Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”
( ” Article 21. Lack of criminal capacity
A person who commits an act that is dangerous to society is suffering from a mental disease or another disease that causes him/her to lose his/her awareness or control of his/her behaviors is exempt from criminal responsibility.” )
– Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người có sự phát triển bình thường về tâm-sinh lí sẽ có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đến tuổi nhất định. Năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị mất đi do mắc bệnh liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi xã hội cho mỗi ch theo đòi hỏi của xã mắc bệnh được luật hình sự Việt Nam gọi là người trong tình trạng không có năng lực TNHS.
– Theo đó, trong luật hình sự Việt Nam, tình trạng không có năng lực TNHS được dùng để chỉ tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh mà khi không ở trong tình trạng đó thì người đủ tuổi chịu TNHS được coi là có năng lực TNHS. Việc kiểm tra tình trạng này trong thực tiễn áp dụng hỉ được đặt ra khi có sự nghi ngờ về hoạt động tâm thần của người có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội. Ở đây cần phân biệt người trong tình trạng không có năng lực TNHS với người không có năng lực TNHS. Người không có năng lực TNHS có thể là người trong tình trạng không có năng lực TNHS hoặc là người chưa đến tuổi chịu TNHS.
– Theo Điều 21 BLHS quy định tình trạng không có năng lực TNHS là tình trạng của người do “… mắc bệnh tâm thần hoặc Lòng nhân thi hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”. Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS: Dấu hiệu y học (mắc bệnh) và dấu hiệu tâm lí (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi).
– Về dấu hiệu tâm lí: Người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Và như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực TNHS còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lí không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
– Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS khi đồng thời cả hai dấu hiệu: y học và tâm lí đều thoả mãn. Hai dấu hiệu này tuy có quan hệ với nhau (trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lí có vai trò là kết quả) nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển.
– Năng lực này có mất hay không không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi đã thực hiện. Có loại bệnh tâm thần luôn luôn làm mất năng lực TNHS, có loại bệnh chỉ làm mất năng lực này khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh hoàn toàn không làm mất năng lực này.
– Như vậy, việc xác định hai dấu hiệu này đều thuộc nội dung của giám định tâm thần tư pháp. Kết luận giám định tâm thần tư pháp không chỉ xác định người thực hiện hành vi có tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc (nếu có) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.
– Bên cạnh tình trạng không có năng lực TNHS, luật hình sự Việt Nam còn thừa nhận trường hợp tình trạng năng lực TNHS hạn chế. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của chủ thể bị hạn chế. Người này không thuộc trường hợp không có điều kiện để có lỗi, nhưng tình trạng năng lực TNHS hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế và do vậy, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực TNHS hạn chế là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tình tiết này được quy định cùng với những tình tiết khác tại Điều 51 BLHS.
– Về dấu hiệu y học: Người gây thiệt hại cho xã hội là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần. Các loại bệnh này có thể là mãn tính hoặc đột ngột nhất thời. Có thể kể đến một số loại bệnh như tâm thần ở các thể trầm trọng, bệnh si ngốc (ngu, đần, thộn), hoặc hoạt động tinh thần bị rối loạn do các bệnh khác như sốt rét ở nhiệt độ quá cao gây mê sảng. Người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
– Tại Điều 21 BLHS năm 2015 cũng quy định các dấu hiệu để xác định người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, đó là:
+ Người gây thiệt hại cho xã hội là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần (dấu hiệu về y học). Các loại bệnh tâm thần thường gặp như các bệnh thiểu năng tâm thần, tâm thần phân liệt…hoặc một số bệnh khác như loạn thần do tuổi già, rối loạn nhận thức sau tai biến, rối loạn nhận thức sau chấn thương sọ não, bệnh động kinh…
+ Do mắc bệnh tâm thần đã làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi (dấu hiệu về tâm lý).
Dấu hiệu tâm lý phản ánh khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm của hành vi, nhận thức về những đòi hỏi của xã hội khi thực hiện hành vi nhất định. Và người không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mất đi năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện, họ không hiểu được hành vi đó là đúng hay sai, có phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội hay không, có phù hợp với quy định của pháp luật hay không…
Do sự rối loạn nhận thức như vậy, nên họ không thể kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng như cân nhắc, lựa chọn xử sự cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
– Theo nghiên cứu của các nhà y học khi mắc bệnh tâm thần thì làm ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức của con người và từ đó ảnh hưởng đến khả năng điều khiển hành vi của họ.
– Vì thế, trong thực tế, khi có các dấu hiệu nghi ngờ người thực hiện hành vi phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Kết luận giám định sẽ cho biết người đó có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đây là việc làm bắt buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người theo quy định của luật tố tụng hình sự.
– Một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự phải đồng thời thỏa mãn hai dâú hiệu y học (mắc bệnh) và tâm lý (khả năng nhận thức) trong đó dấu hiệu tâm lý có vai trò quyết định.
– Hai dấu hiệu này có mối quan hệ chặt chẽ nhau, dấu hiệu y học với vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý giữ vai trò là kết quả. Tiêu chuẩn y học là điều kiện cần để xem xét người đó có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Tiêu chuẩn tâm lý là điều kiện đủ để xác định người đó không có năng lực trách nhiệm hình sự.