Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã có thắng lợi vẻ vang, những chiến thắng này đều cần đến những đường lối chiến đấu hết sức sáng tạo, tài tình của những ngưởi lãnh đạo. Bài viết dưới đây sẽ phân tích tính chất Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 46-54.
Mục lục bài viết
- 1 1. Cho biết tính chất Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954:
- 2 2. Hoàn cảnh lịch sử thực đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 1946 – 1954:
- 3 3. Những thuận lợi và khó khăn của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
- 4 4. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến nhân sau cách mạng tháng Tám:
- 5 5. Kết quả và ý nghĩa lịch sử:
1. Cho biết tính chất Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954:
– Tính chất Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954 mang tính chính nghĩa và nhân dân. Trong cuộc chiến đấu này, chúng ta đứng lên kháng chiến, chiến đấu là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập, tự do, bảo vệ chính quyền. Còn thực dân Pháp là kẻ xâm lược, thực hiện chiến tranh phi nghĩa. Ngay từ đầu Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn cho thấy rõ thiện chí hòa bình, không muốn gây chiến tranh với Pháp, đã nhượng bộ cho chúng một số quyền lợi nhưng quân Pháp vẫn khiêu khích, giết hại dân thường, gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta phải giải tán lực lượng chiến đấu, nếu không sẽ nổ súng…Tất cả những điều đó đã thể hiện dã tâm xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Vì vậy dẫn đến bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc. (Tính chính nghĩa)
– Tính nhân dân thể hiện ở trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: ở việc toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc, trong đó lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Đường lối chiến đấu này xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ mục đích của cuộc kháng chiến, từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác-Lê nin, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từ chủ trương “kháng chiến toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh…”. Muốn phát huy sức mạnh của toàn dân kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy động lực lượng toàn dân. Có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
2. Hoàn cảnh lịch sử thực đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 1946 – 1954:
– Thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ở khu vực Đông Dương hòng đặt lại ách thống trị thực dân. Đoán trước được âm mưu này của Pháp, Đảng và nhân dân ta ngay tại Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, Đảng ta chỉ rõ đến phương pháp khôi phục lại địa vị ở Đông Dương. Tháng 11 năm 1946 quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đánh cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, sau đó đổ bộ lên Đà Nẵng tàn sát đồng bào ta. Đồng thời, Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước hết vũ khí của lực lượng dân quân tự vệ Hà Nội.
– Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22 tháng 12 năm 1946 Ban thường vụ Trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để quyết định chủ trương đối phó Hội nghị đã cử đại diện đi gặp phía Pháp để đàm phán song không có kết quả. Sau đó, Hội nghị phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện đảo chính quân sự ở Hà Nội.
3. Những thuận lợi và khó khăn của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
– Về thuận lợi, cuộc chiến đấu của ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, chúng ta có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt. Dân tộc Việt Nam vốn là một dân tộc giàu truyền thống yêu nước, chống xâm lược. Lực lượng vũ trang của ta tuy còn non trẻ nhưng là lực lượng vũ trang cách mạng từ nhân dân mà ra. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra trong lúc phong trào độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang vươn lên mạnh mẽ. Nhân dân ta cùng nhân dân hai nước Lào và Campuchia đấu tranh chống một kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược.
– Về khó khăn, tương quan lực lượng quân sự của ta yếu hơn bên địch. Hơn nữa, ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận giúp đỡ. Còn phía Pháp được trang bị vũ khí tối tân, đã chiếm được hai nước Lào và Campuchia và một số khu vực Nam Bộ Việt Nam.
4. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến nhân sau cách mạng tháng Tám:
– Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Đảng đã khẳng định rõ kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp. Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị quân sự ngoại giao để làm thất bại âm mưu xâm lược của Pháp để tách Nam Bộ Việt Nam.
– Ngày 19 tháng 10 năm 1946 Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất do Tổng bí thư Trường Trinh chủ trì. Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới.
– Đảng đã cho thấy đường lối toàn quốc kháng chiến thể hiện qua 3 văn kiện chính là “Lời kết gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 12 năm 1946 hay trong “Chỉ thị toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng ngày 22 tháng 12 năm 1946 và trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Trinh tháng 9 năm 1947. Đường lối kháng chiến của Đảng cho thấy tính đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được những kinh nghiệm của tổ tiên đúng nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
– Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo của chiến đấu giam chân địch trong các đô thị củng cố các vùng tự do lớn đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên
– Đầu năm 1951, tình hình thế giới cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
– Tháng 2 năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Đại hội đại biểu lần thứ 2 tại Chiêm Hóa -Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng Cộng sản Đông Dương thành 3 đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Sau Đại hội 2, đường lối của Đảng tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung ương 1,2,4,5 từ năm 1951 đến năm 1953. Với đường lối đó đã góp phần đưa đến thắng lợi Điện Biên Phủ ngày mùng 7 tháng 5 năm 1954.
5. Kết quả và ý nghĩa lịch sử:
– Kết quả của việc thực hiện đường lối thể hiện qua ba mặt: Về chính trị, Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn, tổ chức tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến; bộ máy chính quyền được củng cố; mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới; chính sách ruộng đất được triển khai. Về quân sự, thắng lợi các chiến dịch Chu Du, đường 18 Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất và dân cư mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày mùng 7 tháng 5 năm 1954 đi vào lịch sử dân tộc ta như một “Đống Đa” trong thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiến hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Về ngoại giao, kết hợp đấu tranh chính trị quân sự và ngoại giao.
– Ý nghĩa lịch sử: đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ buộc chúng phải công nhận độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương. Làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới mở rộng địa bàn tăng thêm lực lượng cho Chủ nghĩa xã hội của cách mạng thế giới cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân trên thế giới.