Chùa Một Cột đã trở thành một trong những biểu tượng quốc gia và là địa điểm du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Chùa không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều du khách quốc tế và du khách đến tham quan, thưởng ngoạn vẻ đẹp độc đáo, bản sắc văn hóa dân tộc. Cùng bài viết này tìm hiểu nhé:
Mục lục bài viết
1. Thuyết minh về chùa Một Cột hay nhất:
Chùa Một Cột là một cụm kiến trúc gồm chùa và bệ được xây dựng giữa hồ nước hình vuông. Chùa Một Cột nằm trong quần thể chùa Diên Hữu (kéo dài tuổi thọ). Chùa tọa lạc tại làng Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây Hoàng thành Thăng Long thời Lý, nay thuộc đường Chùa Một Cột, quận Ba Đình, Hà Nội.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào năm Kỷ Sửu, năm Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1049) đời Lý Thái Tông (Lý Phật Mã). Vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) nằm mộng thấy Đức Phật Quán Thế Âm ngồi trên tòa sen dẫn vua lên ngai. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể lại chuyện đó cho các quan lại, có người cho rằng đó là điềm xấu. Hòa thượng Thiền Tuệ khuyên nhà vua xây chùa, dựng cột đá giữa hồ và làm tòa sen của Phật Quan Âm như trong giấc mơ. Khi chùa hoàn thành, một bông sen ngàn cánh đỡ tượng Phật màu hồng, bên trong đặt một tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu mong nhà vua trường thọ nên có tên là chùa Diên Hựu.
Theo tấm bia xây năm Canh Trị 3 do hòa thượng Lê Tất Đại ghi lại thì chùa được xây dựng vào thời nhà Đường: “Năm thứ nhất niên hiệu Hàm Thông nhà Đường… một trụ đá được xây vào năm Giữa hồ, trên đỉnh cột có xây một tòa nhà, tượng ngọc đỏ đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng, khí trời hợp lại tạo nên khí phách anh hùng, cầu xin gì cũng được. Triều đại xây dựng kinh đô ở đây, theo bước chân xưa lại càng linh thiêng hơn, khi Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử, ông thường đến đó cầu nguyện, một đêm tôi nằm mơ thấy Bồ Tát Bồ Tát mời ông lên lầu, tay cầm một chiếc đặt vào lòng vua. Tháng đó hoàng hậu có thai với hoàng tử. Vua cho sửa chữa chùa Diên Hựu bên phải chùa Một Cột để mở rộng thờ cúng…”.
Đến đời Lý Nhân Tông, năm Anh Vũ Chiêu Thánh thứ 5 (1080), vua ra lệnh đúc một quả chuông lớn treo trong chùa gọi là “Giấc Thế Chung” (chuông thức tỉnh con người) và một viên đá xanh. Đình cao tám mét, nhưng vì chuông nặng quá không treo được nên phải đặt xuống đất để không kêu. Nơi đặt chuông thấp, có nhiều rùa đến sinh sống gọi là ruộng Quy Điền và nơi đặt chuông còn gọi là chuông Quy Điền. Khi quân Minh bao vây Đông Quan và cạn kiệt quân khí, Vương Thông đã cho phá hủy chiếc chuông này để đúc súng và đạn.
Quy mô của chùa Một Cột vào thế kỷ 12 lớn hơn và tráng lệ hơn rất nhiều so với ngày nay. Tấm bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi (Hà Nam) xây dựng năm 1121, 16 năm sau khi chùa mới xây xong, cho chúng ta hình ảnh chân thực nhất về chùa Một Cột thời Lý: “Thành kính”. Đức Phật, hãy cống hiến hết mình cho con đường nhân quả và xây dựng chùa Diên Hựu nổi tiếng hướng về vườn cấm nổi tiếng của phương Tây, Tiếp nối dấu vết của chùa cũ cùng với những ý tưởng mới của nhà vua (Lý Nhân Tông): Buổi sáng “Đào hồ Linh Chiếu thơm ngát, giữa hồ mọc lên những cột đá, cột nở hoa sen nghìn cánh, trên sen sừng sững cung điện màu sắc. Màu xanh lá cây, trong điện có tượng đức hạnh bằng vàng, xung quanh hồ là hai hành lang; Ao Bích Trì được đào mỗi bên có cầu vồng bắc qua. Trên sân cầu phía trước hai bên tả hữu xây dựng bảo tháp Lưu Ly.
“Hàng tháng vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hằng năm vào dịp du xuân, nhà vua ngồi xe ngọc, đến chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu đài, bày chậu thau làm lễ tắm tượng Phật. Trang sức pho tượng tinh tế, biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh…”.
Qua mô tả bia ký có thể thấy, Liên Hoa Đài thời Lý có quy mô lớn hơn chùa ngày nay rất nhiều. Chùa thời Trần không còn là chùa thời Lý nữa. Như sách Toàn thư ghi lại, vào năm 1249, “vào mùa xuân tháng Giêng, chùa Diên Hựu được sửa chữa, chiếu vẫn làm trên nền cũ”. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu. Đại tu sửa năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 18 (1249) gần như phải làm lại hoàn toàn. Thời Lê, triều đình nhiều lần tu sửa, thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá. Năm 1838, Toàn quyền Hà Ninh Đặng Văn Hòa đã tổ chức quyên góp từ khắp nơi để sửa chữa điện, đường, hành lang trái phải, tháp chuông và ba cổng. Năm 1852, cha của Tôn Thất Giao xin đúc một chiếc chuông mới. Năm 1864, Toàn quyền Tôn Thất Hàm đã trùng tu lại, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ hoa sen và chạm khắc ngày càng công phu, lộng lẫy. Năm 1954, trước khi rút quân khỏi Hà Nội, quân Pháp đã gài mìn phá hủy chùa. Sau khi tiếp quản kinh đô, Bộ Văn hóa đã sửa chữa chùa Một Cột theo mẫu cũ còn sót lại từ thời nhà Nguyễn.
Tháp sen (Liên Hoa Đài) thường gọi là chùa Một Cột, có hình vuông mỗi cạnh ba mét, mái cong dựng một cột đá hình trụ cao bốn mét (không kể phần ngầm) đường kính 1,2 mét. mét. mét. Cột đá gồm hai khối, được gắn rất khéo léo, thoạt nhìn trông giống như một khối đá rắn chắc. Điểm độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá. Ở đây có sự kết hợp táo bạo giữa trí tưởng tượng lãng mạn tinh tế qua hình tượng hoa sen và các giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc bằng gỗ với hệ móng giằng; đặc biệt là sử dụng các cột chéo lớn từ cột xuống sàn vừa tạo thế vững chắc vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ như những đường cong của cánh sen, tạo nên sự hài hòa giữa mái và sàn bằng sự đối xứng ảo. . Cùng với ao hình vuông phía dưới tượng trưng cho đất (trời tròn, đất vuông), chùa dường như nêu lên một quan niệm cao đẹp: Từ bi soi sáng thế gian. Kiến trúc bằng gỗ được hỗ trợ bởi cảnh quan, có ao hồ và cây xanh, tạo nên bầu không khí gần gũi, trong lành và trang nhã. Cảm giác cao quý của kiến trúc như chia sẻ, giao hòa với trời nước, màu xanh của cây, lá khiến con người rũ bỏ ưu phiền và đạt đến tâm hồn trong sáng như thầy Huyền Quang (1254 – 1334) đời Trần đã viết:
Vạn duyên bất nhiễu thành giã tục
Bán điềm vô ưu nhãn phóng khoan
Nghĩa là:
Mọi duyên chẳng bợn, ngăn lòng tục,
Phiền nhiễu khuấy làng, rộng nhãn quang.
2. Thuyết minh về chùa Một Cột ngắn gọn nhất:
Du lịch là ngành kinh tế quan trọng giúp phát triển nền kinh tế nước ta. Ngày nay, du khách không chỉ quan tâm đến các địa danh nổi tiếng mà còn chú ý đến các địa danh, kiến trúc của xã hội phong kiến. Chùa Một Cột là một địa danh rất nổi tiếng hiện nay.
Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là chùa Diên Hựu hay Liên Hoa Đài (hoa sen). Chùa Một Cột tọa lạc tại xã Thần Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây thành Thăng Long thời Lý, nay thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, gần Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa Một Cột được xây dựng dựa trên giấc mơ của vua Lý Thái Tông. Một hôm vua Lý Thái Tông mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen nên thỉnh vua lên đó. Ngày hôm sau, vua Lý Thái Tông kể lại giấc mơ của mình cho quần thần. Tất cả các quan chức đều cho rằng đó là điềm xấu. Nhưng có một vị hòa thượng tên là Thiền Tuệ cho rằng đó là điềm lành nên đã khuyên nhà vua xây dựng một công trình kiến trúc như vậy. Nghe theo lời khuyên của nhà sư, nhà vua lập tức cho xây dựng một công trình kiến trúc như ước mơ của mình. Và thế là chùa Một Cột được xây dựng.
Chùa Một Cột là một công trình kiến trúc độc đáo. Nhìn từ xa, ngôi chùa giống như một bông sen đang nở rộ. Ngôi đền được làm hoàn toàn bằng gỗ. Cột ở giữa được coi là cuống sen, phía trên là cuống sen. Bên trong chùa Một Cột có tượng Phật Bà Quan Âm để nhân dân ta cầu nguyện may mắn. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc chùa và xây dựng hồ Linh Chiểu. Xưa, khi thực dân Pháp rút khỏi nước ta, chúng đã dùng bom, mìn tấn công chùa Một Cột. Lúc bấy giờ chùa chưa sụp đổ hoàn toàn nên được trùng tu lại giống với chùa cũ. Ngày nay, chùa chỉ là một ngôi chùa nhỏ gồm một ngôi chùa hình vuông, dài khoảng 3m mỗi cạnh, mái cong xây trên cột đá cao khoảng 4m (không kể phần đất trũng bên dưới). đường kính khoảng 1,2m. Cột đá gồm có hai mảnh xếp chồng lên nhau tạo thành một khối vững chắc. Tiếp đến là hệ thống xà gỗ giúp ngôi chùa giữ thăng bằng tốt hơn. Sự độc đáo của ngôi chùa đúng như tên gọi của nó. Đó là ngôi chùa được xây dựng trên một cột đá tròn nhô lên khỏi mặt nước như một bông sen vươn lên khỏi mặt hồ. Để vào chùa chúng ta phải đi qua một cây cầu. Cây cầu này có hình dáng rất giống cầu vồng.
Chùa Một Cột là danh lam thắng cảnh độc đáo không chỉ của thủ đô Hà Nội mà của cả nước Việt Nam nên chùa có giá trị tôn giáo và văn hóa cao. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc được tổ tiên chúng ta từ xưa để lại cho con cháu ngày nay. Hàng năm, vào các ngày lễ tết, nhân dân ta thường đến đó để cúng bái và tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Chùa tượng trưng cho những người trong sáng, không bị danh lợi cám dỗ, giống như hoa sen dù ở trong bùn vẫn nở thơm ngát.
Theo thời gian, ngôi chùa sẽ dần bị hư hỏng hoặc gỗ mục nát. Vì vậy, những ai đến tham quan nên có ý thức bảo vệ ngôi chùa. Khi du khách đến tham quan không nên vứt rác bừa bãi, không nên tùy tiện chạm vào những đồ vật quý hiếm và nên đi lại nhẹ nhàng để ngôi chùa ngày càng bền vững theo thời gian.
Chùa Một Cột là ngôi chùa có diện tích khá nhỏ nhưng là công trình kiến trúc độc đáo của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, được xây dựng trên một bông sen. Chùa Một Cột là ngôi chùa khá yên tĩnh nên rất thích hợp cho du khách muốn dừng chân, tìm chút bình yên sau những ngày mệt mỏi, bận rộn.
3. Thuyết minh về chùa Một Cột độc đáo nhất:
Chùa Một Cột là công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc. Chùa Một Cột không chỉ được coi là ngôi chùa có kiến trúc nghệ thuật độc đáo ở Việt Nam cũng như châu Á mà còn được biết đến là điểm đến tâm linh, trở thành biểu tượng văn hóa nghìn năm của thủ đô Hà Nội.
Chùa Một Cột hay còn gọi là Diên Hữu Tự hay Liên Hoa Đài nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo. Toàn bộ ngôi chùa được xây dựng trên một cột đá cao khoảng 4m. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý trên đất làng Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, nằm ở phía Tây Hoàng thành Thăng Long xưa. Ngày nay chùa tọa lạc trên đường Chùa Một Cột, cạnh Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ tịch nước.
Chùa Một Cột được xây dựng dựa trên cảm hứng giấc mơ của vua Lý Thái Tông. Trong giấc mơ, nhà vua nhìn thấy Quán Thế Âm ngồi trên đài sen và được mời lên đài. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể lại giấc mơ của mình cho triều đình và được hòa thượng Thiền Tuệ khuyên nên xây chùa. Vì vậy vào mùa đông năm 1049, vua Lý Thái Tông đã xây dựng chùa. Để tạo dựng chùa Một Cột, nhà vua đã cho xây một cột đá giữa hồ và xây bệ hoa sen có tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở trên.
Sau khi xây dựng chùa, vua Lý Anh Tông thường đến cầu phúc và làm việc thiện nên không lâu sau đó hoàng hậu mang thai và sinh ra một hoàng tử tuấn tú. Nhờ sự ra đời thần kỳ của hoàng tử, nhà vua coi đó là sự may mắn của trời đất nên đã xây dựng thêm một ngôi chùa khác bên cạnh chùa Một Cột để tạ ơn. Cụm di tích này được đặt tên là Diên Hựu Tử với hy vọng “phúc lành trường tồn”.
Vì muốn trùng tu chùa nên năm 1105 vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh cho người xây dựng lại và dựng hai ngôi tháp mái sứ trắng ở phía trước sân. Ba năm sau, Nguyễn Phi Ỷ Lan ra lệnh cho người ta đúc “Lẽ thường” để đánh thức lòng người. Chùa Một Cột là di tích lịch sử có giá trị nghệ thuật và được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. . Thật vậy, năm 1962 chùa được công nhận là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia và năm 2012 chùa Một Cột đã xác lập kỷ lục “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á” do tổ chức Kỷ lục châu Á trao tặng.
Chùa Một Cột được biết đến là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo bởi chùa Một Cột có hình dáng một bông sen lớn vươn lên từ mặt nước, hình tượng hoa sen nhắc nhở con người về sự thanh tịnh cao quý, ánh sáng thuần khiết. Toàn bộ không gian chùa được đặt trên cột đá cao 4m được làm từ hai khối đá đường kính 1,2m dưới hồ Linh Chiểu. Ao nước bên dưới chùa được bao quanh bởi lan can bằng gạch men tráng men màu xanh lá cây có họa tiết hình khối. Mái chùa được lợp bằng ngói cổ hình con dao cong, phía trên có hình con rồng, thể hiện sức mạnh thần thánh và uy quyền.
Chùa Một Cột đã trở thành một trong những biểu tượng quốc gia và là địa điểm du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Chùa không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều du khách quốc tế và du khách đến tham quan, thưởng ngoạn vẻ đẹp độc đáo, bản sắc văn hóa dân tộc.