Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Việc thi hành thuế này có những ưu nhược điểm cụ thể như sau:
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Việc thi hành thuế này có những ưu nhược điểm cụ thể như sau:
1.Ưu điểm
– Pháp Luật thuế GTGT đã đáp ứng về cơ bản những yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả về cấu trúc bên trong lẫn hình thức biểu hiện bên ngoài.
– Luật thuế GTGT phản ánh đúng những nội dung, yêu cầu của chính sách kinh tế, tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng cũng như thể hiện được mục tiêu, định hướng cơ bản trong chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng.
– Pháp luật thuế GTGT cơ bản đã phản ánh được bản chất của thuế GTGT cũng như cơ chế vận hành của thuế GTGT.
– Luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản được giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT của các công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình không phải khấu hao tài sản sau này mà được khấu trừ hoặc hoàn thuế.
Ví dụ: Khi nhập khẩu thiết bị, máy móc phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc dạng chịu thuế GTGT.
– Luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo đảm sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế.
– Việc triển khai Luật thuế GTGT không gây biến động lớn về giá.
– Luật thuế GTGT đã bắt đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt đọng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn ở các doanh nghiệp.
– Việc triển khai thực hiện Luật thuế GTGT bảo đảm động viên số thu cho nguồn ngân sách Nhà nước. Không giảm hơn so với thuế doanh thu.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
2. Nhược điểm
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì pháp Luật thuế GTGT ở nước ta cũng có những mặt hạn chế phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Cụ thể như sau:
– Đối tượng chịu thuế GTGT chưa phản ánh đúng bản chất của sư vật hiện tượng, việc thuế GTGT phân ra đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế chưa chính xác. Phạm vi đối tượng nộp thuế GTGT được xác định trong luật là quá rộng, trong đó chủ thể là hộ kinh doanh cá thể chiếm một tỷ lệ lớn nhưng chưa có thói quen lập và sử dụng hoá đơn. Khi thực hiện các cung ứng chịu thuế nên gây nhiều khó khăn phức tạp trong quản lý hành chính thuế.
– Giá tính thuế và thuế suất, song thực tiễn thực thi nghĩa vụ thuế GTGT, giá tính thuế được phản ánh trên hoá đơn chứng từ còn có sự khác biệt so với giá thực.
– Việc quy định hai phương pháp tính thuế , thực tiễn thực thi nghĩa vụ thuế GTGT đã đưa đến nhiều bất ổn và không thực tế, nhất là giá tính thuế của hai phương pháp này khác nhau.
– Quy định khấu trừ khống là thiếu cơ sở khoa học, khó khăn trong quản lý hành chính thuế và mục đích của việc khấu trừ khống cũng không thực hiện được.
– Xác định diện hoàn thuế quá rộng, cộng thêm cơ chế “tiền thoái hậu kiểm” cùng với thủ tục thành lập doanh nghiệp quy định trong
– Hoá đơn, chứng từ còn thiếu nhiều dữ kiện quan trọng để xác định trách nhiệm pháp lý của các bên, giá trị pháp lý của chúng chưa được xác định rõ ràng, cơ chế quản lý lỏng lẻo, việc lập và sử dụng hoá đơn, chứng từ khi mua hàng hoá, dịch vụ chưa trở thành thói quen nên hiện tượng gian lận hoá đơn để chiếm dụng tiền của ngân sách Nhà nước bằng con đường khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế GTGT đã phát triển tới mức báo động và không chỉ dừng lại ở sự đơn lẻ của từng doanh nghiệp mà có sự móc nối giữa các doanh nghiệp.