Thời hiệu để tố cáo hành vi cưỡng hiếp. Thời hiệu khởi hiện trong vụ án hình sự, trách nhiệm hình sự đối với hành vi cưỡng hiếp người khác.
Tóm tắt câu hỏi:
Vợ tôi 1 năm trước bị cưỡng hiếp, hỏi bây giờ tôi viết đơn kiện người cưỡng hiếp vợ tôi được không? Tôi nên báo công an hay không? và phải làm như thế nào?
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật tố tụng hình sự 2003;
2. Luật sư tư vấn:
Về nguyên tắc, khởi tố vụ án hình sự là quyền chủ động của cơ quan có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của người bị hại hoặc của người đai diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ý chí của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ được pháp luật quy định như điều kiện bắt buộc để khởi tố vụ án.
Theo Điều 105 bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như sau:
1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Vậy theo thông tin bạn cung cấp vợ của bạn bị cưỡng hiếp là dấu hiệu của tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 Bộ luật Hình sự:
>>> Luật sư
Điều 111. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Vậy chiếu theo Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 trong trường hợp này của bạn bạn không thể trực tiếp là người có quyền khởi kiện người phạm tội. Chủ thể của quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là người bị hại, có nghĩa là vợ của bạn mới là người có quyền khởi kiện.
Trong trường hợp vợ của bạn, là người bị hại chưa thành niên, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của người bị hại, là bạn mới có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp của bạn còn cần phải làm rõ những tình tiết của vụ án để xác định xem chính xác tội phạm hiếp dâm thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để có cơ sở xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy đối với tội hiếp dâm với khung hình phạt được quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự có thể biết là loại tội phạm nghiêm trọng trở lên, theo Điều 23 Bộ luật hình sự quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự:
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ.
Do vậy tính đến thời điểm hiện tại, vợ của bạn vẫn có quyền khởi tố tội phạm, chị nên báo cáo thông tin tố giác với cơ quan điều tra để làm cơ sở xác định, khởi tố tội phạm.