Hiện nay, pháp luật về nhượng quyền thương mại và pháp luật về cạnh tranh đang có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Dưới đây là quy định của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Mục lục bài viết
1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hợp đồng nhượng quyền thương mại :
Căn cứ theo quy định tại Điều 11 của
– Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, thỏa thuận ấn định giá dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
– Thỏa thuận phân chia khách hàng, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hóa, phân chia nguồn cung ứng dịch vụ;
– Thỏa thuận hạn chế số lượng hoặc khối lượng sản xuất, thỏa thuận hạn chế quá trình kiểm soát số lượng, khối lượng trong quá trình mua bán, sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
– Thỏa thuận để một bên hoặc các bên tham gia thắng thầu trong hoạt động đấu thầu đối với việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
– Thỏa thuận kìm hãm và ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường phát triển hoặc quá trình kinh doanh;
– Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận đó;
– Thỏa thuận hạn chế sự phát triển của khoa học công nghệ, kĩ thuật và hạn chế đầu tư;
– Thỏa thuận áp đặt các điều kiện để ký kết hợp đồng, thỏa thuận ấn định các điều kiện để ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho các doanh nghiệp khác, thỏa thuận bắt buộc doanh nghiệp khác phải chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
– Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận;
– Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ đối với các loại sản phẩm và nguồn cung ứng hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận;
– Thỏa thuận khác nhằm mục đích gây tác động xấu hoặc có khả năng ảnh hưởng tiêu cực, gây ra tình trạng hạn chế cạnh tranh.
Theo đó thì có thể nói, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được xem là hành vi thỏa thuận của các bên dưới bất kỳ hình thức nào nhằm mục đích gây ra tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hiện nay đang được liệt kê tại Điều 11 của Luật cạnh tranh năm 2018. Trong đó, những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại thông thường sẽ tập trung vào những thỏa thuận sau:
Thứ nhất, thỏa thuận ấn định giá cả đối với các loại hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Thỏa thuận ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất với nhau để áp dụng một mức giá hoặc áp dụng một cách tính giá chung trong quá trình buôn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc trao đổi thông tin và giá để tạo nên những phản ứng thống nhất về giá cả trong quá trình đàm phán với khách hàng. Thông qua thỏa thuận ấn định giá, các doanh nghiệp đã tạo ra một mặt bằng chung về giá trên thị trường. Khi đó giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ không được hình thành dựa trên quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh của thị trường, mà sẽ hoàn toàn do các thành viên trong thỏa thuận tạo ra. Trong trường hợp này, mức giá mà các bên thỏa thuận thông thường sẽ cao hơn bất thường so với mức giá được hình thành trong môi trường cạnh tranh. Hậu quả của thỏa thuận này là làm cho mức độ cạnh tranh bị giảm đi đáng kể, tước đoạt cơ hội được lựa chọn sản phẩm với mức giá cạnh tranh hợp lý trên thị trường của khách hàng.
Ví dụ: Trong thị trường cà phê, có 02 đối thủ cạnh tranh là Highland Coffee và Gloria Jean‟s coffees. Để tăng lợi thế cạnh tranh, các bên trong hệ thống nhượng quyền Highland Coffee thỏa thuận cùng thống nhất mức giá bán là 50.000/ly cà phê Capuchino trong khi Gloria Jean‟s coffees là 70.000đ/ly cùng loại, với chất lượng như nhau. Nếu mục đích trong việc thống nhất giá của các bên trong hệ thống Highland Coffee thành công thì sớm hay muộn Gloria Jean‟s coffees cũng sẽ không thể tồn tại đồng hành cùng Highland Coffee trên thương trường do khách hàng chuyển sang sử dụng cà phê của Highland Coffee.
Thứ hai, thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp đối với hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Thực chất thì các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh về khu vực kinh doanh và khách hàng trong hợp đồng nhượng quyền thương mại diễn ra vô cùng phổ biến, trong một chừng mực nhất định nào đó nó kìm hãm không cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường, kìm hãm sự phát triển kinh doanh và loại bỏ các doanh nghiệp ra khỏi thị trường. Có thể kể đến một số ví dụ trong lĩnh vực ẩm thực như, khi cửa hàng nhượng quyền muốn đưa bất kỳ sản phẩm nào cùng công dụng và cùng giá thành vào thị trường kinh doanh trên thực tế thì đều phải được sự chấp thuận từ bên nhượng quyền mới có thể làm được điều đó. Các thương hiệu nhượng quyền hiện nay như KFC, lotteria … gắn liền với các loại thức uống đi kèm đó là pepsi, aquafina … tất cả các sản phẩm này đều là sản phẩm thuộc công ty pepsi, khách hàng sẽ không bao giờ tìm thấy các sản phẩm thuộc thương hiệu Coca-Cola trong chuỗi các cửa hàng này.
Thứ ba, thỏa thuận về vấn đề hạn chế hoặc kiểm soát đối với số lượng, khối lượng trong quá trình sản xuất, mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Các thỏa thuận này nhằm mục đích hạn chế quyền tự do kinh doanh và hạn chế khả năng phát triển của bên nhận quyền. Chính vì vậy cho nên để đảm bảo cho sự phát triển của các thương hiệu và đảm bảo cho sự phát triển tối đa của các loại sản phẩm, bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ nắm toàn quyền chủ động trong việc quyết định về số lượng cửa hàng nhượng quyền trong phạm vi của một quốc gia và phạm vi của một khu vực địa lý nhất định. Hoạt động cạnh tranh được thực hiện dựa trên nguyên tắc trung thực, cần phải đảm bảo nguyên tắc công bằng và cạnh tranh lành mạnh, không được xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền, lợi ích công cộng và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong hợp đồng nhượng quyền thương mại:
Có thể kể đến một số hành vi lạm dụng vị trí thống nhất thị trường trong hoạt động nhượng quyền thương mại như sau:
Thứ nhất, hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Đây là hành vi của bên nhượng quyền khi đưa ra một mức giá quá cao đối với bên nhận quyền, mà mức giá đó được cho là không phù hợp với quy định của thị trường chung. Tuy nhiên cần phải lưu ý, cần phải khẳng định rằng, không phải mọi hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền đều bị cấm. Hành vi này chị bị coi là bất hợp pháp khi bên nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường có liên quan. Có nghĩa là nếu bên nhượng quyền đạt ngưỡng thị phần từ 30 % trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, hoặc nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh với hàng hóa và dịch vụ mà bên nhượng quyền kinh doanh trên thị trường liên quan, thì việc áp đặt giá bán bất hợp lý nêu trên mới bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Theo đó, bên nhượng quyền sẽ bị cấm thực hiện hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền nếu hội tụ đầy đủ các điều kiện sau:
– Bên nhượng quyền có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc có vị trí độc quyền;
– Việc áp đặt giá bất hợp lý đó gây thiệt hại cho bên nhận quyền.
Thứ hai, hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Đây là hành vi của bên nhượng quyền, theo đó bên nhượng quyền đưa ra một mức giá bán lại tối thiểu bắt buộc bên nhận quyền phải tuân theo trong quá trình bán lại sản phẩm trên thị trường. Hành vi này thường xảy ra trong quan hệ nhượng quyền phân phối, có nghĩa là bên nhận quyền mua bán hàng hóa của bên nhượng quyền để bán lại cho người khác. Đối tượng tác động trực tiếp của hành vi này chính là giá bán hàng hóa của bên nhận quyền cho khách hàng.
Thứ ba, hành vi bắt buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi của bên nhượng quyền, theo đó bên nhượng quyền bắt buộc bên nhận quyền ngoài việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ là đối tượng của hợp đồng, thì bên nhận quyền còn phải mua bán hàng hóa và dịch vụ khác từ bên nhượng quyền hoặc từ các nhà cung cấp được bên nhượng quyền chỉ định. hậu quả của hành vi này đó là hình thành nên các hợp đồng mua bán kèm theo, theo đó thì ngoài việc nhận chuyển ra phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền đó là quyền thương mại, bên nhận quyền còn phải mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến hợp đồng nhượng quyền hoặc phải thực hiện những nghĩa vụ không đương nhiên phát sinh từ hợp đồng nhượng quyền thương mại, nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại đó.
3. Đề xuất về việc thỏa thuận điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền thương mại:
Đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hợp đồng nhượng quyền thương mại, cần phải bổ sung trường hợp ngoại lệ cho phép các bên thỏa thuận hạn chế bên nhận quyền chủ động bán hàng ở các khu vực khác ngoài phạm vi lãnh thổ nhượng quyền, nếu đạt một số điều kiện như:
(i) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng vào một lãnh thổ nhất định chỉ được áp dụng đối với lãnh thổ độc quyền dành riêng cho bên nhượng quyền hoặc được phân chia cho một bên nhận quyền. Với điều kiện này, việc hạn chế cạnh tranh chỉ có giá trị và ảnh hưởng đến cạnh tranh trong nội bộ phạm vi hệ thống nhượng quyền mà không gây hạn chế cạnh tranh đối với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống nhượng quyền.
(ii) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng này phải được đồng thời áp đặt lên bên nhượng quyền và các bên nhận quyền còn lại và các bên nhận quyền thứ cấp trong phạm vi lãnh thổ nhượng quyền. Với điều kiện này, việc hạn chế cạnh tranh chỉ giới hạn trong phạm vi nội bộ hệ thống nhượng quyền như đã phân tích ở điều kiện (i) mới được đảm bảo một cách triệt để. Tránh trường hợp các bên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ được nhượng quyền, thông qua đó, ảnh hưởng đến cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như khu vực nằm ngoài phạm vi hoạt động của hệ thống nhượng quyền.
(iii) Hành vi hạn chế việc chủ động bán hàng này không ngăn cản việc bán lại hàng hóa của các bên mua hàng của bên nhận quyền. Với điều kiện này, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hưởng ngoại lệ trong phạm vi hoạt động nhượng quyền, diễn ra giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền, do bản chất của hoạt động nhượng quyền cần thiết phải ghi nhận. Do đó, tất cả các thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm được cung cấp bởi hệ thống nhượng quyền có hậu quả cản trở cạnh tranh vượt ra khỏi quan hệ nhượng quyền thương mại (quan hệ giữa bên mua hàng của nhận quyền với khách hàng của họ) đều không được hưởng ngoại lệ.
Tóm lại, việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật liên quan về cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại là cần thiết nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động nhượng quyền thương mại diễn ra ngày một sôi động tại Việt Nam. Đồng thời, cũng giúp các doanh nghiệp có thể tránh được các kiện tụng liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật cạnh tranh năm 2018;
– Bộ luật Dân sự năm 2015.