Khi hai vợ chồng không còn tiếng nói chung, tình cảm đôi bên không còn được như trước thì ly hôn là điều tất yếu sẽ xảy ra. Khi đó, tài sản là thứ khiến người ta tranh giành nhiều nhất. Vậy, tài khoản ngân hàng đứng tên cá nhân được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng?
Mục lục bài viết
1. Tài khoản ngân hàng cá nhân là tài sản chung hay riêng?
Căn cứ theo quy định tại Điều 213 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về sở hữu chung của vợ chồng, cụ thể như sau:
– Sở hữu chung của vợ chồng được xác định là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia theo quy định của pháp luật;
– Vợ chồng cùng nhau tạo lập và phát triển khối tài sản chung phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình và có quyền lợi ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung đó;
– Vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc tiến hành hoạt động ủy quyền cho nhau để chiếm hữu hoặc sử dụng và định đoạt khối tài sản chung;
– Tài sản chung của vợ chồng có thể được phân chia theo thỏa thuận của hai vợ chồng hoặc phân chia theo quyết định của tòa án cấp có thẩm quyền;
– Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng sẽ được áp dụng theo chế độ tài sản này.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 33 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có ghi nhận về tài sản chung của vợ chồng, cụ thể như sau:
– Tài sản chung của vợ chồng bao gồm phần tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, thu nhập từ hoạt động lao động và quá trình sản xuất kinh doanh của vợ chồng, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được coi là tài sản chung, và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 40 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, khối tài sản mà vợ chồng có được từ hoạt động thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác mà vợ chồng có thỏa thuận là tài sản chung;
– Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó vợ chồng có được từ thừa kế riêng hoặc được nhận tặng cho riêng hoặc có được thông qua các giao dịch bằng tài sản riêng của bản thân, không có sự đóng góp của bên còn lại;
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và được dùng để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của cả gia đình cũng như thực hiện nghĩa vụ chung của hai vợ chồng;
– Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó sẽ mặc nhiên được coi là tài sản chung.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 9 của
– Các khoản tiền thưởng và tiền trúng thưởng từ hoạt động xổ số, tiền được hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật;
– Tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với các vật vô chủ hoặc vật bị chìm đắm, các vật bị chôn dấu và vật bị đánh rơi hoặc bỏ quên theo quy định của pháp luật, gia súc và gia cầm bị thất lạc hoặc vật nuôi dưới nước theo quy định của pháp luật;
– Thu nhập hợp pháp khác phù hợp với quy định của pháp luật;
– Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng là những sản vật tự nhiên mà vợ chồng có được từ tài sản riêng của chính mình;
– Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng chính là các khoản lợi nhuận mà vợ chồng thu được trong quá trình khai thác tài sản riêng của chính mình.
Như vậy có thể nói, trong thời kỳ hôn nhân không thể tránh khỏi vợ chồng có tài khoản ngân hàng đứng tên cá nhân. Tuy nhiên nhiều người đặt ra câu hỏi: Tài khoản ngân hàng đứng tên cá nhân đó được coi là tài sản chung hay tài sản riêng? Theo phân tích nêu trên thì có thể thấy, tiền trong tài khoản của vợ hoặc của chồng nếu một bên không chứng minh được đó là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thì số tiền này sẽ được coi là tài sản chung của hai vợ chồng. Khi ly hôn thì bên còn lại hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tài sản chung của vợ chồng là số tiền trong tài khoản của vợ hoặc tài khoản của chồng, khi đó thì tòa án sẽ xem xét và giải quyết theo chế độ tài sản chung của vợ chồng phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Tiền gửi tài khoản ngân hàng của vợ chồng khi ly hôn được chia như thế nào?
Có thể nói, những khoản tiền trong tài khoản ngân hàng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân do vợ chồng cùng tạo lập hoặc thu được từ hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng, do vợ hoặc chồng đứng tên trên tài khoản đó, số tiền gửi này vẫn còn đến thời điểm giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật thì khi ly hôn, nguyên tắc chung sẽ chia đôi cho hai bên vợ chồng căn cứ theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Bên cạnh đó, nếu như khoản tiền này được hình thành trước thời kỳ hôn nhân hoặc một bên chứng minh được số tiền này có được từ tài sản riêng của mình thì sẽ được xác định là tài sản riêng căn cứ theo quy định tại Điều 43 của Luật nhân gia đình năm 2014. Khi đó thì người đứng tên chủ tài khoản ngân hàng sẽ có quyền chiếm hữu, có quyền sử dụng và định đoạt đối với khoản tài sản đó căn cứ theo quy định Điều 44 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, và sẽ không cần phải đem chia tài sản trong quá trình ly hôn.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 32 của Hôn nhân gia đình năm 2014 có ghi nhận về việc, trong giao dịch đối với người thứ ba ngày tình thì vợ chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng hoặc tài khoản chứng khoán theo quy định của pháp luật sẽ được coi là người có quyền xác lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong trường hợp này thì số tiền gửi ngân hàng đã được vợ hoặc chồng xác lập hoặc thực hiện một giao dịch đối với người thứ ba ngày tình theo quy định của pháp luật trước khi ly hôn thì bên còn lại sẽ không có quyền yêu cầu chia đối với phần tài sản này. Quy định này của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đang đứng ra bảo vệ quyền lợi cho phía người thứ ba ngày tình. Và điều này được đánh giá là phù hợp.
3. Tiền lãi ngân hàng là tài sản chung hay riêng?
Căn cứ theo quy định tại Điều 33 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về tài sản chung của vợ chồng, cụ thể như sau:
– Tài sản chung của vợ chồng bao gồm phần tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, thu nhập từ hoạt động lao động và quá trình sản xuất kinh doanh của vợ chồng, hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được coi là tài sản chung, và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 40 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, khối tài sản mà vợ chồng có được từ hoạt động thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác mà vợ chồng có thỏa thuận là tài sản chung;
– Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó vợ chồng có được từ thừa kế riêng hoặc được nhận tặng cho riêng hoặc có được thông qua các giao dịch bằng tài sản riêng của bản thân, không có sự đóng góp của bên còn lại;
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và được dùng để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của cả gia đình cũng như thực hiện nghĩa vụ chung của hai vợ chồng;
– Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó sẽ mặc nhiên được coi là tài sản chung.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định Điều 10 của
– Hoa lợi phát sinh từ phần tài sản riêng của vợ chồng được xác định là các sản vật tự nhiên mà vợ chồng có được từ tài sản riêng của chính mình;
– Lợi tức phát sinh từ khối tài sản riêng của vợ chồng chính là các khoản lợi mà vợ chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.
Như vậy, có thể nói đối với tiền gửi ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng thì tiền lãi phát sinh sẽ được coi là tài sản chung. Còn đối với trường hợp tiền gửi ngân hàng được xác định là tài sản riêng của vợ chồng thì tiền lãi phát sinh sẽ được xem là lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Và đối chiếu với các quy định nêu trên thì khoản tiền lãi này cũng sẽ đương nhiên được coi là tài sản chung.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Nghị định 126/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.