Trong bức tranh lớn của cuộc đời, "Số phận con người" là một câu chuyện bi kịch nhưng đầy ý nghĩa, là nguồn cảm hứng để chúng ta nhìn nhận về nghị lực và tuổi trẻ. Vậy qua tác phẩm này thì ta nhận ra gì, mời các bạn tham khảo bài viết Suy nghĩ về nghị lực và tuổi trẻ qua Số phận con người dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Suy nghĩ về nghị lực và tuổi trẻ qua Số phận con người:
Sô-lô-khốp – một nhà văn Nga lỗi lạc, giành giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, với rất nhiều tác phẩm sâu sắc. Một trong số những truyện ngắn tiêu biểu của ông phải kể đến “Số phận con người”. Truyện không chỉ thể hiện cách nhìn nhận về cuộc sống và chiến tranh một cách chân thực, toàn diện mà còn khơi dậy niềm tin tưởng rằng ý chí và nghị lực của con người có thể khắc phục được khó khăn gian khổ, vượt qua số phận éo le. Đặc biệt, tác phẩm khiến cho lớp người trẻ cần phải suy nghĩ về nghị lực của bản thân trong cuộc sống.
Tác phẩm với nhân vật trung tâm là Xô-lô-cốp, một cuộc đời với quá nhiều bất hạnh, chiến tranh đã cướp đi toàn bộ người thân trong gia đình của anh, bản thân anh một mình vật lộn với khó khăn của cuộc sống, sự khổ sở giày vò đến mức anh thường có những câu hỏi day dứt về số phận như “Đời ơi là đời sao người lại làm ta sứt mẻ đến thế? Sao người lại hành hạ ta đến thế?”. Bên cạnh nhân vật Xô-lô-cốp, còn có bé Va-ni-a – một cậu bé với hoàn cảnh bất hạnh không thua kém gì. Cậu bé không cha mẹ, không nhà cửa, không nơi nương tựa bởi chiến tranh đã cướp đi tất cả, khi ấy Xô-lô-cốp đã đến và mang tình thương ấp ủ cậu bé, hai số phận bất hạnh an ủi nhau, vỗ về và ấp ủ cho nhau ấm lên. Trong họ, ta có thể cảm nhận được luôn tồn tại một ý chí kiên cường và nghị lực phi thường.
Tác giả đã ca ngợi phẩm chất nghị lực của con người, vậy nghị lực đó là gì? Đầu tiên ta phải hiểu “nghị lực” là sự nỗ lực, cố gắng vươn lên và vượt qua khó khăn, là sự mạnh mẽ dám đương đầu và chinh phục thử thách. Tuổi trẻ là lớp người còn trẻ, tương lai phía trước còn dài và còn nhiều những chông gai thử thách. Nghị lực là một trong yếu tố quan trọng và cần thiết để tuổi trẻ có thể vượt qua giông tố cuộc đời, thực hiện những mục tiêu và ước mơ, hoài bão của đời mình. Tuổi trẻ là lúc con người ta sung sức nhất, nhiệt huyết với cuộc đời nhất nhưng cũng là lúc cuộc đời nhiều sóng gió, gian nan và thử thách nhất. Chẳng có con đường nào trải hoa hồng mà không phải giẫm lên gai, không thử thách lớn thì thử thách nhỏ, không khó khăn về tài chính kinh tế thì khó khăn về tình cảm gia đình hay có những số phận sinh ra đã chịu sự thiệt thòi bị khuyết tật, không được đầy đủ chân tay, câm, điếc,… Họ vừa phải chấp nhận số phận bất hạnh lại vừa phải đối mặt với muôn vàn khó khăn cuộc sống, ấy vậy ý chí nghị lực đã giúp họ tồn tại. Nếu tuổi trẻ không giàu nghị lực nhất thì chẳng còn lứa tuổi nào thích hợp hơn nữa, có điều tuổi trẻ có biết đánh thức, khơi dậy và sử dụng vũ khí sắc bén đó hay không. Đã có rất nhiều tấm gương với nghị lực phi thường vượt lên trên số phận của mình, đương đầu với khó khăn thử thách và đạt được thành công trong cuộc sống, nổi tiếng trên thế giới như Nick Vujicic sinh năm 1982, anh mắc hội chứng etra-amelia bẩm sinh khiến Nick không có tay, hai chân rất nhỏ không thể di chuyển. Bất chấp số phận và những khó khăn, anh đã vươn lên học tập tốt nghiệp đại học với tấm bằng kép kế toán và kế hoạch tài chính, sau đó anh đã trở thành một diễn giả nổi tiếng, có hàng ngàn bài phát biểu tại hàng chục quốc gia, truyền cảm hứng sống và vươn lên cho hàng triệu người. Xã hội ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tuổi trẻ muốn có cơ hội khẳng định bản thân mình phải có bản lĩnh đấu tranh, nghị lực sẽ là phương tiện tối ưu nhất, là vũ khí sắc bén nhất để tuổi trẻ giành chiến thắng trong cuộc chiến đó. Nếu không có nghị lực, tuổi trẻ cũng chỉ giống như mầm non mãi không chịu lớn, những chồi non khác lấy được phần dinh dưỡng sẽ vươn lên, dần mầm non kia sẽ héo mòn và tàn lụi. Những người như thế là những người thường sống buông thả, phó mặc cuộc đời cho số phận, không có ý chí vươn lên và luôn ngại khó, ngại khổ, dễ dàng bỏ cuộc, dễ dàng từ bỏ trước thử thách, khó khăn. Những người học sinh chúng ta chính là thế hệ tuổi trẻ, chúng ta phải biết rèn luyện ý chí nghị lực và tinh thần quyết tâm, kiên cường để có thể đương đầu với cuộc sống tương lai phía trước. Nắm trong tay tương lai và vận mệnh của cả quốc gia dân tộc, tuổi trẻ càng phải ý thức được trách nhiệm của mình với ước mơ, hoài bão xây dựng và bảo vệ đất nước. Cần phải nhìn những tấm gương nghị lực phi thường để học tập và rèn luyện, tuyệt đối không được nản chí, tuyệt vọng và đầu hàng trước khó khăn.
2. Suy nghĩ về nghị lực và tuổi trẻ qua Số phận con người hay:
Số phận con người là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Nga Sô-lô-khốp. Tác phẩm nói về cuộc đời và số phận của những con người nhỏ bé, những hạt cát vô danh trong cuộc đời rộng lớn, thông qua câu chuyện ta không chỉ đồng cảm với số phận của những con người nhỏ bé bị dòng đời vùi dập, che lấp mà còn tìm thấy cho riêng mình những bài học vô cùng quý giá, mà một trong số đó chính là bài học về nghị lực và tuổi trẻ.
Sô-cô-lốp từng là một người lính trong đội quân Hồng quân Liên Xô, từng hết mình chiến đấu chống phát xít Đức, giải phóng cho đất nước của mình. Sô- cô- lốp có gia đình gồm vợ và một người con trai và con gái, nhưng trong một trận tấn công của quân phát xít thì vợ và con gái của Sô-cô-lốp bị bom đạn chiến tranh làm cho mất mạng. Sô-cô-lốp chỉ còn một người con trai, đó cũng chính là người con thương yêu, niềm tự hào và mục đích sống của Sô-cô-lốp. Nhưng số phận trớ trêu thay, vào ngày Hồng quân Liên Xô giải phóng thủ đô Matxcova cũng là khi người con trai bị bắn chết.
Hòa bình lập lại nhưng Sô-cô-lốp lại trở thành một con người vô cùng đáng thương, ông đơn độc, lẻ loi và mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Sự tồn tại của Sô-cô-lốp giờ đây chỉ đơn thuần là duy trì sự sống mà không còn bất cứ một mục đích, một ý nghĩa sống nào. Ông làm nghề lái xe làm công việc kiếm ăn qua ngày, trong một lần lái xe ông đã vô tình gặp cậu bé Va-ni-a, cuộc gặp gỡ định mệnh này cũng đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của ông, làm cho cuộc sống vốn vô vị ấy trở nên có ý nghĩa hơn.
Cậu bé Va-ni-a là một cậu bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, cậu bé một mình sống côi cút, leo lắt qua ngày, cậu sống bằng những đồ ăn thừa mà mình kiếm được trên đường. Cuộc sống đáng thương, nghèo khổ nhưng cậu bé vẫn mạnh mẽ sống, mạnh mẽ tồn tại, chính sự kiên cường của cậu bé đã khiến cho Sô- cô- lốp cảm động và quyết định nhận nuôi Va- ni- a. Ấn tượng đầu tiên của Sô- cô- lốp về Va- ni- a đó chính là một cậu bé chừng năm, sáu tuổi, quần áo rách tướp, mặt dính đầy nước dưa hấu.
Cảm động trước hoàn cảnh đơn độc của cậu bé, nhận thấy cậu bé Va-ni-a cũng giống mình, là những con người bị số phận vùi dập nên Sô- cô- lốp đã quyết định nhận nuôi Va-ni-a. Giây phút Va-ni-a cất tiếng gọi cha là khi ta rơi nước mắt vì cảm động, hai con người bất hạnh đã tìm kiếm được sự đồng cảm và nguồn động lực ở đối phương. Nếu như Va- ni-a tìm được một người cha, một gia đình mà cậu bé hằng mơ ước thì Sô-cô-lốp lại tìm lại được ý nghĩa của cuộc sống, bởi giờ đây đã có người để anh yêu thương, có người cùng anh vượt qua những trái ngang của số phận.
Chiến tranh tuy đi qua nhưng những đau thương của chiến tranh để lại thì vẫn còn mãi, vẫn mãi day dứt trong tâm hồn của con người, cả Sô-cô-lốp và Va-ni-a đều là nạn nhân đáng thương nhất, họ mất đi tất cả những người thân, sống một cuộc đời cô độc đến khi họ vô tình gặp mặt nhau. Sự kiên cường, mạnh mẽ vươn lên số phận của Sô- cô- lốp và Va-ni-a khiến cho chúng ta cảm phục bởi họ đã mạnh mẽ, kiên trì vượt lên tất cả, học chiến thắng số phận bằng chính tình thương yêu và nghị lực mạnh mẽ của mình.
Sô-cô-lốp dù mất đi tất cả những người mà anh thương yêu, ngay cả người con trai mà anh ta coi là mục đích sống của đời mình cũng hi sinh vào giây phút chiến thắng cuối cùng. Sô-cô-lốp vẫn mạnh mẽ sống, khát khao yêu thương vẫn luôn tồn tại nên khi gặp Va-ni-a anh mới có quyết định nhanh chóng và dứt khoát như vậy. Va-ni-a là một đứa trẻ ngây thơ, trong sáng, em luôn khao khát tình yêu của cha mẹ, khi được Sô-cô-lốp nhận nuôi em đã vui mừng chấp nhận và còn nói ra những lời khiến chúng ta cảm thấy đau lòng “Sao bây giờ ba mới tìm con”.
Qua cuộc sống và số phận của hai nhân vật Sô-cô-lốp ta có thêm những bài học quý giá về nghị lực và tuổi trẻ. Đó chính là những yếu tố làm cho con người trở nên mạnh mẽ, giúp con người khẳng định vai trò và sự tồn tại của mình trong xã hội. “Nghị lực” là nguồn nội lực từ bên trong, đó là những quyết tâm, những nguồn sức mạnh khiến cho con người có thể vượt qua mọi khó khăn của cuộc sống, vươn lên số phận để khẳng định mình.
Nghị lực giúp cho con người thực hiện được những điều mà mình mong muốn, tiếp cho con người thêm sức mạnh, niềm tin và sự kiên trì để vượt qua mọi thử thách, biến cố mà cuộc sống đặt ra cho mỗi người. Có nghị lực, con người sẽ có điều kiện phát huy mọi năng lực vốn có trong con người của mình, hiệu quả của công việc do đó cũng sẽ được phát huy một cách tối đa. Hơn nữa, có nghị lực cũng khiến cho con người có niềm tin mạnh mẽ vào cuộc sống, khi đã có niềm tin và nghị lực thì dù bất cứ khó khăn nào cũng không thể làm khó được con người.
Nói về nghị lực của con người cũng như vai trò của nó trong cuộc sống, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh qua bài thơ sau:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
“Tuổi trẻ” lại chính là phần đời đẹp nhất của con người, đó là khoảng thời gian con người có nguồn năng lượng dồi dào, mạnh mẽ nhất. Tuổi trẻ gắn liền với những thử thách, với những đỉnh cao cần chinh phục. Tuổi trẻ khiến cho con người có nguồn sức mạnh để thực hiện những mục đích tưởng chừng như là không thể thực hiện, có nguồn năng lượng dồi dào để chinh phục mọi thử thách trong cuộc sống của con người. Nghị lực luôn gắn liền với tuổi trẻ, chúng luôn song hành và bổ trợ cho nhau.
Bởi vậy, con người trong hiện tại muốn thành công và chinh phục những ước mơ, hoài bão mà mình đặt ra hãy nỗ lực hết sức lực, không chỉ tận dụng những yếu tố cơ hội khách quan mà hãy phát huy cả những yếu tố chủ quan trong chính con người của mình, như vậy thành công ắt sẽ đạt được và ta sẽ trở thành những người chinh phục mạnh mẽ nhất.
3. Suy nghĩ về nghị lực và tuổi trẻ qua Số phận con người ấn tượng:
Chiến tranh đã đi qua thường để lại những mất mát không gì bù đắp được. Không có một nghị lực phi thường con người khó có thể vượt qua. Những nhân vật trong truyện ngắn “Số phận con người” của Sô-lô-khốp là tấm gương cho nghị lực vượt qua nỗi đau sau chiến tranh. Không ồn ào, câu chuyện kể về cuộc đời của một chiến sĩ Nga Xô viết Xô-cô-lốp trở về sau chiến tranh với mất mát không gì bù đắp nổi nhưng đã vượt lên tất cả để sống và thương yêu. Từ cuộc sống của chính anh, người đọc rút ra bài học quý báu về nghị lực. Điều này thực sự cần thiết và có ý nghĩa đối với những người trẻ tuổi.
“Số phận con người”, là câu chuyện kể về anh lính Hồng quân mang tên Xô-cô-lốp. Cuộc đời anh là một chuỗi những mất mát không gì có thể bù đắp nổi. Những năm nội chiến, anh tham gia Hồng quân. Năm 1922, mất mát đầu tiên đến với anh khi cả nhà bị chết vì nạn đói, chỉ mình anh đi làm thuê cho cu-lắc nên sống sót. Xô-cô-lốp làm đủ nghề để sinh sống, anh lấy vợ, dần dần xây dựng được một gia đình hạnh phúc, có vợ hiền và ba đứa con xinh xắn. Mọi thứ tưởng như cứ thế bình lặng trôi cho đến khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Xô-cô-lốp từ giã vợ con để ra mặt trận. Anh bị bắt làm tù binh của phát xít, phải chịu biết bao sự hành hạ tra tấn dã man của kẻ thù. Đến khi trốn về đơn vị một thời gian thì anh nhận được tin đau đớn: một trái bom của máy bay phát xít đã chôn vùi tất cả nhà cửa cùng với vợ anh và hai đứa con gái. Còn nỗi đau nào lớn hơn thế? Cuộc sống tưởng chừng đã có thể công bằng hơn khi nhen nhóm lại trong anh hi vọng vào cuộc sống về người con trai duy nhất còn lại nay đã là một đại uý pháo binh, Xô-cô-lốp đã có thể tưởng tượng ra ngày cha con gặp nhau trên đường tiến quân về thành phố Béc-lin, tưởng tượng ra được hạnh phúc của người cha được ôm vào trong lòng giọt máu cuối cùng, niềm hi vọng cũng là niềm tự hào, động lực sống cuối cùng. Anh chờ đợi và khát khao giây phút ấy. Nhưng nghiệt ngã thay, ngày anh mong mỏi được gặp lại con cũng là ngày anh nhận được tin báo về sự hi sinh anh dũng của người con trai. Người con trai đã hi sinh đúng vào ngày mồng chín tháng năm, ngày chiến thắng. Cha con gặp lại nhau không phải để san sẻ và trao cho nhau những giọt nước mắt xúc động mà chỉ còn Xô-lô-cốp với nỗi đau không thể nào vơi cạn. Mọi hi vọng, mọi nguồn sống, mọi người thân, lần lượt rời xa anh. Chuỗi đau khổ mất mát đến tận cùng có thể quật ngã con người mãi mãi. Và thực tế ấy đã xảy ra không chỉ với một người. Mọi liều thuốc tinh thần có thể để cho anh bấu víu lần lượt tuột mất khỏi tay.
Sau nỗi đau đớn tột cùng về cái chết của cậu con trai đúng vào ngày chiến thắng, nỗi đau tưởng không thể gượng dậy cuối cùng cũng đã tìm được cho nó một chiếc phao cứu sinh. Nghị lực không chỉ giúp cho Xô-cô-lốp tiếp tục tồn tại mà nó còn khiến anh có thể mở rộng lòng mình để yêu thương, san sẻ với nỗi đau của người khác. “Không thể để mình và nó chìm nghỉm riêng rẽ như vậy được. Mình sẽ nhận nó làm con”. Cùng với quyết định ấy, một cuộc hồi sinh nữa trong anh được bắt đầu. Tình cảm nồng nhiệt mà cậu bé Va-ni-a giành cho anh như cơn mưa tưới ướt mảnh đất tâm hồn hạn hán, mang lại sức sống cho nó. Xô-cô-lốp tìm lại được cảm giác của một người được che chở, chăm sóc cho người khác, yêu thương và được yêu thương. “Đêm đêm, khi thì nhìn nó ngủ, khi thì thơm mớ tóc xù của nó, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ nay trở nên êm dịu hơn…”. Nghị lực đã làm cho Xô-cô-lốp có thể tiếp tục sống. Nghị lực và tình yêu thương khiến cho anh có thể mở rộng lòng mình cho một số phận bất hạnh khác. Và tình yêu thương thì lại làm cho tâm hồn anh hồi sinh. Xô-cô-lốp đang sống không phải vì “bản thân sự sống” mà đang sống vì “những gì ngoài sự sống nữa”. Tương lai đang mở ra phía trước: sống vì “cậu con trai mới” nhưng quá khứ thì vẫn không thể khép lại. “… quả tim của tôi đã rệu rã lắm rồi, nó phải thay pít-tông thôi (…) hầu như đêm nào tôi cũng mơ thấy những người thân đã quá cố. Và lúc nào cũng thế, tôi ở bên này, sau hàng rào dây thép gai, còn vợ con thì tự do ở bên kia… Tôi nói đủ chuyện với I-ri-na, với các con nhưng chỉ vừa mới toan lấy tay đẩy dây thép gai ra, thì vợ con lai rời bỏ tôi, cứ như là vụt tan biến mất (…) ban ngày bao giờ tôi cũng trầm tĩnh được, không hớ ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối đẫm nước mắt”. Mất mát không thể nguôi ngoai cũng như nỗi đau khổ không bao giờ có thể hết nhưng điều đáng quí ở Xô-cô-lốp chính là nghị lực phi thường để tạm quên đi nỗi đau của mình mà sống vì một người khác.
Đứng bên cạnh Xô-cô-lốp, Va-ni-a cũng là một số phận bất hạnh. Còn nhỏ tuổi, cậu bé đã mất mẹ. Cậu bé sống lang thang với hi vọng và niềm tin mãnh liệt một ngày nào đó tìm lại người cha trên thực tế đã hi sinh. Được Xô-cô-lốp nhận là cha cậu bé đã xúc động đến nỗi nước mắt giàn giụa: “Con biết mà. Con biết bố thế nào cũng tìm thấy con mà! Con chờ mãi mong được gặp bố”. Nghị lực sống tiềm tàng như một thứ bản năng trong những con người Nga Xô Viết kiên cường. Nó đã được đền đáp xứng đáng. Trở thành con của Xô-cô-lốp, cậu bé gắn bó với anh như hình với bóng. Hai số phận bất hạnh đã tìm đến nhau, mở rộng lòng mình để yêu thương nhau, để xoa dịu những vết thương đang ngày đêm làm họ nhức nhối. “Hai con người côi cút, hai hạt cát bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó – con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi…”.
Câu chuyện vừa là một bản bi ca về số phận con người lại vừa là một bản anh hùng ca về nghị lực phi thường vượt lên trên hoàn cảnh và số phận. Nó để lại trong lòng mỗi chúng ta sự đồng cảm, xót thương nhưng nhiều hơn cả vẫn là sự khâm phục, trân trọng; mang đến cho mỗi chúng ta, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ suy nghĩ về nghị lực trong cuộc sống. Cuộc sống luôn đầy rẫy những khó khăn, thứ thách. Có những nỗi đau sẽ vẫn là nỗi đau nếu như con người không thể tự thoát ra khỏi chúng nhưng nhờ có nó mà con người trưởng thành hơn lên. Cuộc sống chính là môi trường tốt nhất để con người tự rèn luyện. Nếu như bản thân mỗi người không tự rèn luyện cho mình có một nghị lực, một sức mạnh tiềm tàng thì sẽ khó có thể đương đầu với tất cả những khó khăn phía trước. Điều này đáng suy nghĩ nhất đối với những người trẻ tuổi. Là những người đang bước vào cuộc đời, còn nhiều những bỡ ngỡ, mỗi khó khăn đối với một người từng trải là bình thường thì với người chưa có kinh nghiệm trong cuộc sống có thể trở nên vô cùng phức tạp. Nếu như không tự rèn luyện nghị lực cho mình thì người đó sẽ dễ dàng bị gục ngã và có thể không bao giờ có thể gượng dậy được nữa. Trong hoàn cảnh đất nước ngày càng phát triển, vai trò của thế hệ trẻ không chỉ là góp tay vào xây dựng đất nước mà còn phải đưa đất nước sánh vai cùng với các nước trên thế giới. Khi ấy, mỗi người trẻ tuổi không chỉ phải nỗ lực học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ học vấn mà càng cẩn phải hình thành và bồi dưỡng ở bản thân nghị lực lớn, trở thành người có ích cho xã hội.
THAM KHẢO THÊM: