Điều kiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng? Thời hạn, hình thức sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng? Thời gian xử lý việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng?
Hiện nay việc chào bán chứng khoán ra công chúng là một hình thức rất phổ biến để có thể thực hiện việc huy động vốn, thêm lợi nhuận và các mục đich khác của các tổ chức phát hành chứng khoán. Khi tổ chức nào đó đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng mà có sai sót về hồ sơ hay có thể là thiếu thông tin thì pháp luật cho phép thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng. Vậy cụ thể thủ tục này được thực hiện như thế nào? Dưới đây là thông tin chi tiết về nội dung này.
Cơ sở pháp lý: Luật chứng khoán 2019
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Điều kiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng
Căn cứ theo quy định tại điều 22. Sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng Luật chứng khoán 2019 quy định cụ thể:
1. Trong thời gian hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng đang được xem xét, tổ chức phát hành có nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện thông tin không chính xác hoặc còn thiếu nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm.
2. Trong thời gian xem xét hồ sơ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có quyền yêu cầu tổ chức phát hành sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng để bảo đảm thông tin được công bố chính xác, trung thực, đầy đủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
3. Sau khi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng mà phát sinh thông tin quan trọng liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, tổ chức phát hành phải công bố thông tin phát sinh theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật này và thực hiện việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
4. Văn bản sửa đổi, bổ sung gửi đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải có chữ ký của những người đã ký trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc của những người có cùng chức danh với những người đó.
5. Thời hạn xem xét hồ sơ đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tính từ ngày Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận được văn bản sửa đổi, bổ sung đầy đủ và hợp lệ.
Theo như quy định trên và căn cứ dựa trên thực tế thì tổ chức thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, cụ thể cần nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, theo đó mà hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng phải kèm theo quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua hồ sơ. Bản chất của chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử nên nếu những thông tin và dữ liệu của chứng khoán có thể sai lệch, thiếu gây nhầm lẫn thì phải thực hiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng kịp thời đúng quy định thì mới có thể phát hành.
Như chúng ta đã biết thì việc phát hành chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hoá các hình thức huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, giúp doanh nghiệp tránh được các khoản vay ngân hàng với lãi suất cao. Doanh nghiệp có chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán chắc chắn có uy tín hơn đối với công chúng và chứng khoán cũng có tính thanh khoản hơn. Theo đó nên các doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, sử dụng vốn tiết kiệm, linh hoạt và có hiệu quả hơn. Với những vai trò như vậy thì nếu phát hành chứng khoán mà hồ sơ có sai sót cũng dẫn tới những rủi ro không đáng có. Theo đó nên việc thực hiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng là thật sự cần thiết và hợp lý.
2. Thời hạn, hình thức sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng
Theo quy định của pháp luật thì văn bản sửa đổi, bổ sung gửi đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải có chữ ký của những người đã ký trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc của những người có cùng chức danh với những người đó. Về thời hạn xem xét, hình thức văn bản sửa đổi, bổ sung hồ sơ, tài liệu báo cáo, khoản 7 Điều 6 Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định:
“Điều 6. Quy định chung về việc nộp, bổ sung hồ sơ, tài liệu báo cáo
7. Thời hạn xem xét hồ sơ, tài liệu báo cáo được tính từ ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ, tài liệu báo cáo đầy đủ và hợp lệ. Văn bản sửa đổi, bổ sung phải có chữ ký của những người đã ký trong hồ sơ, tài liệu báo cáo hoặc của những người có cùng chức danh với những người đó hoặc của người đại diện theo pháp luật của công ty. Hồ sơ, tài liệu báo cáo đầy đủ và hợp lệ là hồ sơ, tài liệu báo cáo có đủ thành phần theo quy định của Nghị định này, có nội dung được kê khai đầy đủ theo quy định.”
Như vậy nếu thuộc các trường hợp muốn thực hiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng thì cần thực hiện theo đúng thời hạn mà pháp luật quy định. Như trên thì thời hạn được đề cập tới được tính từ ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Theo đó các tổ chức thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng phải lưu ý về quy định này.
3. Thời gian xử lý việc sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng
Thời hạn xem xét hồ sơ đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 22 Luật chứng khoán năm 2019 được tính từ ngày Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận được văn bản sửa đổi, bổ sung đầy đủ và hợp lệ. Từ khoản 5 đến khoản 8 Điều 6 Nghị định 155/2020/NĐ-CP hướng dẫn vấn đề này như sau:
– Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, tài liệu báo cáo, trường hợp hồ sơ, tài liệu báo cáo cần sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đầy đủ và hợp lệ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ, tài liệu báo cáo phải có văn bản gửi tổ chức, cá nhân nêu rõ nội dung yêu cầu sửa đổi, bổ sung. Đối với các trường hợp có quy định thời hạn xử lý hồ sơ ngắn hơn thời hạn trên thì thời hạn cơ quan tiếp nhận hồ sơ, tài liệu báo cáo có văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ (nếu có) được tính bằng thời hạn xử lý hồ sơ.
-. Trong thời gian hồ sơ, tài liệu báo cáo đang được xem xét, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ, tài liệu báo cáo có nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung hồ sơ, tài liệu báo cáo khi phát hiện thông tin không chính xác hoặc còn thiếu hoặc thay đổi nội dung quan trọng phải có trong hồ sơ, tài liệu báo cáo theo quy định pháp luật hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm.
– Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ, tài liệu báo cáo có yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ, tài liệu báo cáo theo quy định tại khoản 5 Điều này, tổ chức, cá nhân phải hoàn thiện hồ sơ, tài liệu báo cáo theo yêu cầu. Đối với trường hợp chào mua công khai thanh toán bằng tiền, chào mua công khai bằng cổ phiếu phát hành, thời hạn hoàn thiện hồ sơ là 15 ngày. Quá thời hạn trên, tổ chức, cá nhân không hoàn thiện hồ sơ, tài liệu báo cáo, cơ quan tiếp nhận hồ sơ, tài liệu báo cáo dừng việc xem xét hồ sơ, tài liệu báo cáo.
Như vậy dựa trên quy đinh mà pháp luật đưa ra như trên chúng ta có thể thấy việc thực hiện sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng phải thực hiện đúng theo thời hạn thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng. Theo đó thì các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình lập hồ sơ, tài liệu báo cáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ, tài liệu báo cáo. Các thông tin trong hồ sơ, tài liệu báo cáo phải chính xác, trung thực, không gây hiểu nhầm và có đầy đủ những nội dung quan trọng ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư và đối với việc phát hành có nghĩa vụ sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện thông tin không chính xác hoặc còn thiếu nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm.
Trên dây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Sửa đổi, bổ sung hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.