Tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật được xác định là hệ thống pháp luật Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Sự hình thành, phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam:
1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật Việt Nam:
Tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật được xác định là hệ thống pháp luật Việt Nam
Theo đó, hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2. Sự hình thành, phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam:
Hệ thống pháp luật Việt Nam hình thành và phát triển qua các thời kỳ như sau:
– Ở thời Lý: xuất hiện bộ luật Hình thư. Có thể nói đây là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước nhà. Theo đó, bộ luật hình thư gồm 3 quyển. Trong bộ luật hình thư sẽ quy định về các nội dung như là tổ chức của triều đình, quan đội và hệ thống quan lại; biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; sở hữu và mua bán đất đai, tài sản, quy định về thuế…
– Đến thời Trần: có quốc triều hình luật. Theo đó, quốc triểu hình luật ở thời Trần kế thừa nội dung của Hình thư từ thời Lý và bổ sung và điều chỉnh nhất định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản.
– Ở thời vua Lê Thánh Tông: xuất hiện bộ luật Hồng Đức Bao gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Bộ luật Hồng Đức có các nội dung về hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình và tố tụng. Có thể nói Bộ luật Hồng Đức được đánh giá là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam.
– Ở thời Nguyễn: có bộ luật Gia Long bao gồm 398 Điều, chia thành 22 quyển và 6 lĩnh vực. Theo đó, Bộ luật Gia Longcó các nội dung quy định về: tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại; tội danh và hình phạt; quản lý dân cư và đất đai; ngoại giao và nghi lễ cung đình; tổ chức quan đội và quốc phòng; xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm; được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú.
– Ngày 09/11/1946: xuất hiện bản hiến pháp năm 1946. Đây là bản án Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Bản Tuyên ngôn Độc lập; khẳng định quyền tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam ta. Theo đó, bản Hiến pháp năm 1946 bao gồm: 7 chương và 70 điều, trong đó có các nội dung quy định về chính thể; nghĩa vụ quyền lợi của công dân; cơ cấu tổ chức của Nghị viện nhân dân, Chính phủ, HĐND, Ủy ban hành chính và cơ quan tư pháp.
Kể từ ngày 19/12/1946 – Ngày Toàn quốc kháng chiến, Nhà nước Việt Nam đã ban hành 479 văn bản pháp luật, trong đó có 243 sắc lệnh, 46 Thông tư và 12 văn bản khác.
– Ngày 01/01/1960: có hiến pháp 1959 bao gồm 10 chương và 112 Điều. Trong đó, có các nội dung chính quy định về chế độ chính trị, kinh tế và xã hội; trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước; quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân… Theo đó thì sau khi Hiến pháp 1959 được thông qua, hoạt động lập pháp của nước ta chỉ quan tâm đến lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, nghĩa vụ quan sự và pháp luật hình sự. Các lĩnh vực khác ít được quan tâm hơn
– Ngày 19/12/1980: có Hiến pháp 1980. Đây là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Theo đó hiến pháp này thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới; bao gồm 12 chương và 147 Điều. Trong đó, có các nội dung chính quy định về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của cơ quan nhà nước.
– Ngày 18/04/1992: có Hiến pháp 1992 bao gồm 12 chương và 147 Điều; có các nội dung chính quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước; thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ. Hiến pháp này khẳng định Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân.Từ sau khi Hiến pháp 1992 được thông qua, hệ thống pháp luật Việt Nam có những bước phát triển nhảy vọt
– Ngày 07/01/2002: có nghị quyết 51/2001/QH10 sửa đổi Hiến pháp 1992. Theo đó, nghị quyết này khẳng định rõ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
– Ngày 01/01/2014: Hiến pháp 2013 bao gồm 11 chương và 120 Điều, trong đó bao gồm các nội dung chính về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, giáo dục; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ chức bộ máy nhà nước; bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp 2013 ra đời đánh dấu bước hoàn thiện hoạt động lập pháp của nước nhà trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Tóm lại, từ sơ đồ hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ nêu trên ta có thể thấy được rằng hệ thống pháp luật Việt Nam luôn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội, truyền thống dân tộc… của đất nước trong mỗi thời kì phát triển.
Bên cạnh đó thì, hệ thống pháp luật Việt Nam luôn chịu sự chi phối, tác động của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Sự chi phối của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đối với hệ thống pháp luật Việt Nam thông qua các nguyên tắc chung của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới và đang có xu hướng giao thoa, hài hoà hoá với hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia khác trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế và toàn cầu hoá. Hệ thống pháp luật Việt Nam luôn không ngừng phát triển và hoàn thiện cùng đất nước với những nguyên tắc chống áp bức, bóc lột, thực hiện dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, vì giá trị cao nhất là hạnh phúc của con người.
Có thể thấy rằng hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ khi tiến hành đổi mới đến nay có bước phát triển nhảy vọt cả về lượng và chất, trong hệ thống pháp luật được bổ sung thêm các quy phạm pháp luật mới và loại bỏ dần những quy phạm pháp luật lạc hậu, không còn giá trị; nguồn pháp luật được củng cố, mở rộng, được sử dụng đa dạng hơn, Nhà nước Việt Nam đã chú ý nhiều hơn tới án lệ, tập quán pháp, điều ước quốc tế… đáp ứng nhu cầu phát triển phức tạp, đa dạng, năng động của các quan hệ xã hội hiện nay, nhất là những quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài như quan hệ dân sự, lao động, thương mại, hôn nhân và gia đình…
2. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay:
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật:
Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam bao gồm:
1. Hiến pháp – Do Quốc hội ban hành, là văn bản pháp luật cao nhất.
2. Luật hoặc Bộ luật – Do Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ký quyết định ban hành.
3. Nghị quyết của Quốc hội
4. Văn bản dưới luật gồm: Pháp lệnh, Nghị quyết; Lệnh, Quyết định; Nghị định; Quyết định; Nghị quyết; Thông tư; nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội; thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
2.2. Hệ thống cấu trúc pháp luật Việt Nam:
Hệ thống cấu trúc pháp luật Việt Nam bao gồm: Ngành luật hiến pháp; Ngành luật hành chính; Ngành luật tài chính; Ngành luật hôn nhân và gia đình; Ngành
Từ lập luận và phân tích nêu trên có thể thấy rằng hệ thống pháp luật Việt Nam rất phức tạp do có quá nhiều loại văn bản pháp luật được ban hành, nhưng lại có quá nhiều kẽ hở và lỗ hổng, các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ với nhau, gây cản trở và đè nặng lên người dân, doanh nghiệp.