Vợ Nhặt và Chí Phèo là hai tác phẩm tiêu biểu về đề tài người nông dân trong xã hội phong kiến xưa, tuy vậy, mỗi tác phẩm lại mang một giá trị nhân đạo, một ý nghĩa thông điệp khác nhau thông qua từng cái kết của tác phẩm. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn so sánh đoạn kết của 2 tác phẩm Chí Phèo và Vợ Nhặt.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý So sánh đoạn kết của 2 tác phẩm Chí Phèo và Vợ Nhặt ngắn gọn nhất:
Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Nam Cao và Kim Lân.
Sự khác biệt trong phong cách sáng tác của hai nhà văn Nam Cao và Kim Lân trong đoạn kết của Chí Phèo và Vợ Nhặt.
Thân bài:
a. Đoạn kết của Chí Phèo:
– Khái quát những nét chính về cuộc đời và những bi kịch của Chí Phèo:
+ Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, đánh dấu sự thức tỉnh nhân tính trong con người Chí, đồng thời bộc lộ khát khao được làm người lương thiện, tuy nhiên, sự từ chối của xã hội đã khiến hắn đau đớn và lựa chọn con đường giải thoát cho chính mình.
– Cái chết của Chí Phèo cũng là một chi tiết nhân văn, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của những người dân nghèo bị áp bức đến cùng cực, bị đẩy vào chỗ cùng đường mạt lộ.
– Tố cáo chế độ phong kiến thực dân thối nát đã khiến nhiều kiếp người khốn khổ rơi vào bi kịch, tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo.
– Kết truyện, nhà văn Nam Cao đã mở ra một cái kết: “Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”.
=> Trong vòng luẩn quẩn của xã hội thối nát ấy, Chí Phèo chết đi nhưng cái bi kịch của Chí Phèo vẫn còn đó, vẫn còn đeo bám những con người đang sống và sẽ sống trong tương lai.
Đó chính là số phận tăm tối và bế tắc của người nông dân ở chế độ cũ.
– Cái kết dường như đã mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ, liên tưởng, khiến độc giả phải trăn trở, liệu có lối thoát cho những con người khốn khổ, phải đồng cảm sâu sắc với họ.
b. Đoạn kết của Vợ nhặt:
– chi tiết “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, là một chi tiết đắt giá gợi ra cái sự đau đớn, tàn ác của nạn những năm 44-45, nhưng lại mở ra trong lòng người đọc hình ảnh một tương lai tươi sáng về cách mạng.
– Ở trong Tràng dần có sự giác ngộ về ý thức Cách mạng, bởi có lẽ chỉ có cách mạng thì người nông dân mới thoát khỏi cái cảnh khốn đốn, cầm cự trước nạn đói do lũ phát xít tàn ác gây ra.
– Đoạn kết thể hiện lòng trân trọng những khát khao sống, khát khao thay đổi cuộc đời đang kề cận bên bờ vực thẳm và niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng. Dường như, chính những người nông dân nghèo khổ, khốn đốn cùng cực mới có thể tự giải thoát cho mình, bản thân Tràng nghĩ đến việc phá kho thóc, nghĩ đến việc làm cách mạng, hướng về lá cờ đỏ sao vàng.
c. Bàn luận:
– Hai tác phẩm cùng thể hiện tính hiện thực sâu sắc khi phản ánh một cách rất rõ nét về số phận và cuộc đời đầy những bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ.
– Điểm khác biệt giữa hai nhà văn: nếu như Kim Lân tập trung nhiều vào giá trị nhân văn, nhân đạo bằng cách xây dựng cho nhân vật các lối thoát hợp lý, tác giả miêu tả hiện thực để nhấn mạnh cái giá trị nhân văn mà mình muốn truyền tải. Thì nhà văn Nam Cao thì tập trung vào tính hiện thực, tố cáo xã hội và lột tả số phận bi kịch của con người, lấy giá trị nhân văn, tình người trong tác phẩm để nhấn mạnh và làm rõ bi kịch của nhân vật.
Kết bài:
– Nêu cảm nhận cá nhân với giá trị nội dung của hai đoạn kết
2. Dàn ý so sánh đoạn kết của 2 tác phẩm Chí Phèo và Vợ Nhặt chi tiết:
Mở bài:
Nam Cao và Kim Lân là hai nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam, nhưng họ có những phong cách sáng tác và cách nhìn về hiện thực rất khác biệt. Nam Cao, với tác phẩm “Chí Phèo”, khắc họa bi kịch của con người bị tha hóa, phản ánh sự bế tắc của người nông dân trong xã hội phong kiến thối nát. Trong khi đó, Kim Lân, với “Vợ nhặt”, đã đem lại niềm tin vào khả năng tự cứu rỗi của con người dù đứng trước cảnh nghèo đói. Điểm khác biệt nổi bật nhất là trong đoạn kết của hai tác phẩm, khi Nam Cao để lại nỗi ám ảnh về vòng luẩn quẩn của xã hội, thì Kim Lân lại mở ra hy vọng về tương lai cách mạng.
Thân bài:
a. Đoạn kết của “Chí Phèo”:
– Bi kịch cuộc đời và sự thức tỉnh của Chí Phèo: Chí Phèo từ một người nông dân lương thiện đã bị tha hóa bởi sự áp bức của xã hội phong kiến và Bá Kiến. Khi nhân tính thức tỉnh sau khi gặp Thị Nở, Chí khao khát được sống lương thiện. Tuy nhiên, sự từ chối của xã hội khiến Chí rơi vào tuyệt vọng. Hắn giết Bá Kiến, kẻ đã đẩy cuộc đời hắn vào bi kịch, và tự sát như một cách giải thoát khỏi sự bế tắc của cuộc đời.
– Tính nhân văn trong cái chết của Chí Phèo: Cái chết của Chí không chỉ là sự kết thúc của một cá nhân, mà còn là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của người dân nghèo bị áp bức. Nam Cao đã sử dụng hình ảnh Chí Phèo để lên án chế độ phong kiến thực dân, nơi mà những người nông dân như Chí bị dồn đến đường cùng, không còn lối thoát.
– Cái kết ám ảnh và vòng luẩn quẩn của xã hội: Chi tiết “thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không…” ở cuối truyện mang tính biểu tượng cao. Nó ám chỉ rằng dù Chí Phèo đã chết, nhưng cái vòng luẩn quẩn của cuộc sống khốn cùng vẫn còn đó. Những con người như Chí Phèo, Thị Nở sẽ tiếp tục đối mặt với bi kịch không lối thoát, phản ánh xã hội cũ tăm tối và đầy bế tắc.
– Suy ngẫm của người đọc: Đoạn kết của “Chí Phèo” khiến độc giả phải suy nghĩ về số phận của những người nông dân dưới chế độ phong kiến. Liệu họ có thể tìm được lối thoát hay mãi mãi bị cuốn vào bi kịch của cuộc đời?
b. Đoạn kết của “Vợ nhặt”:
– Khát vọng sống và hy vọng về cách mạng: Đoạn kết của “Vợ nhặt” lại mở ra một tia sáng mới khi Tràng dần giác ngộ về cách mạng. Chi tiết “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” không chỉ tái hiện thảm cảnh của nạn đói, mà còn biểu tượng cho tương lai cách mạng đang đến gần. Tràng dường như đã nhận ra rằng chỉ có cách mạng mới giúp người nông dân thoát khỏi cảnh khốn đốn.
– Lòng nhân ái và niềm tin vào tương lai: Mặc dù tình huống ban đầu của truyện là bi đát, nhưng tác phẩm lại toát lên tinh thần nhân văn sâu sắc. Sự xuất hiện của người “vợ nhặt” không chỉ là một điều tình cờ, mà còn là dấu hiệu của khát vọng sống mãnh liệt. Bà cụ Tứ, Tràng và người vợ nhặt đều thể hiện sự hy vọng vào một tương lai tươi sáng, mặc cho cái đói đang đe dọa.
– Niềm tin vào sự tự cứu rỗi: Kim Lân xây dựng một lối thoát nhân văn cho các nhân vật trong “Vợ nhặt”, nơi người nông dân tự tìm cách giải thoát cho mình qua việc giác ngộ cách mạng và cùng nhau đứng lên chống lại hoàn cảnh. Đoạn kết này làm nổi bật niềm tin bất diệt vào tương lai.
c. Bàn luận:
– Tính hiện thực sâu sắc của hai tác phẩm: Cả Nam Cao và Kim Lân đều phản ánh rất rõ nét những bi kịch của người nông dân dưới chế độ phong kiến và thực dân. Tuy nhiên, nếu Nam Cao đi sâu vào việc tố cáo xã hội thối nát, qua đó lột tả bi kịch không lối thoát của nhân vật, thì Kim Lân lại tập trung vào giá trị nhân văn và khát vọng sống của con người, mở ra lối thoát qua cách mạng.
– Sự khác biệt trong cách tiếp cận hiện thực: Nam Cao dùng bi kịch để phơi bày sự tha hóa và bế tắc của con người, trong khi Kim Lân lại nhấn mạnh vào khát vọng thay đổi và sự tự cứu rỗi thông qua cách mạng. Điều này tạo nên sự khác biệt rõ ràng trong phong cách và tư tưởng của hai nhà văn.
Kết bài:
Cả Nam Cao và Kim Lân đều là những bậc thầy trong việc khắc họa hiện thực đời sống người nông dân, nhưng mỗi người có cách tiếp cận và nhìn nhận khác nhau. Đoạn kết của “Chí Phèo” để lại cho người đọc nỗi ám ảnh và sự trăn trở về bi kịch không lối thoát của người nông dân, trong khi đoạn kết của “Vợ nhặt” mở ra hy vọng về một tương lai tươi sáng nhờ cách mạng. Dù khác biệt, cả hai tác phẩm đều làm nổi bật giá trị nhân văn sâu sắc và thể hiện sự cảm thông đối với số phận của con người trong xã hội cũ.
3. Bài văn So sánh đoạn kết của 2 tác phẩm Chí Phèo và Vợ Nhặt hay nhất:
Trước khi Cách mạng thực hiện, văn học Việt Nam là một phần của văn hóa phong kiến, phản ánh thực trạng xã hội đầy bi kịch và bất công. Và trong mảng đề tài viết về người nông dân thì sẽ là thiếu sót lớn nếu không nhắc đến hai nhà văn tiêu biểu là Kim Lân và Nam Cao với một Vợ nhặt và Chí Phèo, vừa hiện thực đau đớn, xót xa cho những kiếp người cùng khổ, vừa mang đậm tính nhân văn sâu sắc, ở đó ta thấy tình người dẫu bị cái đói, cái nghèo vùi dập nhưng nó vẫn chưa từng và chưa bao giờ đánh mất cái bản ngã khiến con người ta thức tỉnh và có hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy cùng viết về người nông dân, thế nhưng mỗi nhà văn có một phong cách, đặc trưng riêng, nếu như Nam Cao dường như tập trung viết về cái hiện thực khốc liệt và những chi tiết về tình người cao cả chính là cái để đẩy bi kịch của nhân vật lên cao nhất, để lột tả sự tàn ác của chế độ cũ với con người. Thì ngòi bút Kim Lân lại chan chứa tình cảm và thấm đẫm giá trị nhân văn, hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho các nhân vật. Sự khác biệt ấy được thể hiện rõ nét qua đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và Vợ nhặt – Kim Lân.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã khéo léo viết lên bi kịch cuộc đời của nhân vật, Chí từ khi sinh ra đã bất hạnh vì bị bỏ rơi tại cái lò gạch cũ. Nhưng lớn lên, hắn là một người lương thiện, dù nghèo, nhưng kiếm sống chính bằng sức lao động của mình. Chí Phèo đi làm người ở nhà Bá Kiến, nhưng cuộc đời anh gần như khép lại bởi cái tính gian dâm của bà Ba và cái thói ghen tuông đỏ mắt của Bá Kiến, đã khiến anh bị đẩy vào ngục tù tăm tối. Cái nhà tù khốn nạn của chế độ thực dân phong kiến, bước vào làm người lương thiện nhưng bước ra thì thành kẻ lưu manh. Cuộc đời Chí Phèo trượt dài trên con đường tội lỗi, làm tay sai cho chính kẻ đã hủy hoại đời mình, bán rẻ nhân cách lấy mấy xu bạc sống qua ngày, cùng với những cơn say bất tận và những tiếng chửi không ai buồn đáp. Hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tiếng chửi của hắn được xếp ngang với tiếng sủa của mấy con chó dữ canh cổng cho nhà Bá Kiến, đớn đau và xót xa đến tận cùng. Thế rồi đến khi đã bước qua đến bên kia con dốc của cuộc đời, thì Thị Nở đến, như một món quà của tạo hóa và nhưng cũng mở ra một bi kịch khác của trong cuộc đời hắn, đó là bi kịch bị từ chối quyền làm người. “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”, câu nói cay nghiệt của bà cô đã làm Chí sực tỉnh khỏi cái giấc mơ tốt đẹp. Lời nói của nhân vật, hay chính là lời miệt thị của xã hội ngoài kia, họ đã hoàn toàn chặn đứng ước mơ làm lại cuộc đời của Chí Phèo, ước mơ được làm người lương thiện của hắn. Cuối cùng nhân tính trong con người của anh trai trẻ đã thức dậy sau hơn 20 năm bị chính hiện thực cuộc sống tàn ác vùi dập, Chí Phèo dường như đã hết bị đẩy đến con đường tận cùng không lối thoát, hắn muốn lương thiện, nhưng không ai cho hắn được lương thiện. Kết truyện bằng chi tiết Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, để kết thúc chuỗi ngày tăm tối, sa đọa của mình, đánh dấu sự thức tỉnh nhân tính trong con người Chí, đồng thời bộc lộ khát khao được làm người lương thiện cùng cực, đến đau đớn đến mức phải lấy cái chết để chứng minh. Hơn thế, cái chết của Chí được xem là một chi tiết nhân văn, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến tàn ác. Dẫu rằng việc dùng bạo lực là tiêu cực, nhưng trong hoàn cảnh ấy, thực sự người nông dân chỉ còn cách vùng lên đấu tranh. Không chỉ vậy, giá trị nhân văn của tác phẩm còn nằm ở chỗ tố cáo chế độ phong kiến thực dân thối nát và tàn bạo, khiến nhiều kiếp người khốn khổ phải lao đao, phải rơi vào bi kịch và tiêu biểu đó chính là nhân vật Chí Phèo. Cuối truyện Nam Cao để lửng một câu: “Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”, Thị Nở nhìn bụng mình rồi nghĩ đến gã tình nhân vừa mới chết hôm qua, lòng thị không biết nghĩ gì, thị thương xót Chí, xót phận mình, rồi chắc cũng nghĩ đến cái tương lai nếu có một Chí Phèo con ra đời. Cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo bị , bỏ rơi, Thị Nở nghĩ về nó là nghĩ về tương lai một đứa trẻ nữa có thể cũng bị bỏ lại nơi ấy. Thế hóa ra rằng đi hết một vòng, cứ ngỡ Nam Cao cho chúng ta một cái kết mở nhưng đó lại là cái vòng lặp luẩn quẩn không lối thoát truyền kiếp của Chí Phèo ư? Có lẽ rằng Chí Phèo chết đi nhưng cái bi kịch của Chí Phèo vẫn còn đó, vẫn còn đeo bám những con người đang sống và sẽ sống trong tương lai.
Với Vợ nhặt, người đọc dường như cảm nhận nhận rõ được rằng giọng văn của Kim Lân nhẹ nhàng và hóm hỉnh, khác hẳn với giọng văn ngưng trọng và lạnh lẽo của Nam Cao. Tràng một anh trai thiết nghĩ rằng đỡ bất hạnh hơn Chí Phèo bởi Tràng có mẹ nuôi nấng, không phải chịu kiếp mồ côi, tuy vậy Tràng là thanh niên nghèo, xấu xí, ế vợ chính là bi kịch của Tràng. Thế nhưng dưới ngòi bút của Kim Lân, nhân vật dẫu rằng có thảm hại, chịu nhiều khổ sở nhưng họ vẫn luôn tìm được cho mình một ánh sáng. Mà ánh sáng của Tràng có lẽ bắt nguồn từ người vợ nhặt, có vợ Tràng thấy mình sống có trách nhiệm hơn, khao khát về một gia đình đầm ấm sâu sắc. Cũng từ câu chuyện mà vợ kể về hình ảnh đoàn người đói khát đi phát kho thóc, mà Tràng nhận ra được hướng đi mới để dẫn cả gia đình ra khỏi cơn nguy khốn khi cái đói cứ rình rập. Chi tiết cuối “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, là một chi tiết đắt giá, nó trước hết là gợi ra cái cảnh nạn đói thê thảm năm 44-45, sau là gợi ra sự hiện diện của cách mạng đã về gần hơn với cuộc sống của những người nông dân cùng khổ. Ở Tràng dần có nhận thức, giác ngộ về cách mạng, bởi lẽ chỉ có cách mạng về thì người nông dân mới thoát khỏi cái cảnh khốn đốn, cầm cự trước nạn đói do lũ phát xít tàn ác gây ra.
Cũng như Chí Phèo, cái kết của Vợ nhặt là một cái kết mở mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nhìn nhận hiện thực ở một khía cạnh khác có phần nhẹ nhàng hơn, đó là lòng trân trọng những khát khao sống mãnh liệt, khát khao thay đổi cuộc đời đang kề cận bên bờ vực thẳm, là niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng. Thay vì luẩn quẩn bế tắc trong cái bi kịch đói kém, thì chính họ – những người nông dân nghẹo phải tự giải thoát cho mình, bản thân Tràng nghĩ đến việc phá kho thóc, nghĩ đến việc làm cách mạng, hướng về lá cờ đỏ sao vàng. Dù là cách nào cũng được, nhưng chúng đều là những con đường sáng đưa cả gia đình Tràng thoát ra khỏi sự tăm tối, khổ cực, thoát khỏi cái vị đắng nghét của nồi cháo cám. Đó là sự vận động tất yếu của xã hội loài người theo xu hướng tích cực, tác giả không nói rõ Tràng sẽ làm gì tiếp theo, thế nhưng một cái kết mở có hậu, đủ để người ta liên tưởng về một tương lai tốt đẹp cho gia đình Tràng khi cách mạng về.
Như vậy nhìn chung điểm giống nhau của hai tác phẩm chính là tính hiện thực sâu sắc đã phản ánh một cách rất rõ nét về cuộc đời và số phận đầy những bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ, mà tất cả những bi kịch khốn khổ ấy đều đến từ sự xâm lược của bọn thực dân phát xít, cùng với sự tàn ác đốn mạt của chế độ phong kiến vốn đã mục rỗng, thối nát. Tuy nhiên, nếu như Nam Cao viết về một Chí Phèo với những bi kịch nối tiếp bi kịch và sự bế tắc không lối thoát cho nhân vật, để rồi đặt một cái kết thúc tưởng là mở nhưng lại là mở ra một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, thể hiện rõ rằng Chí Phèo dẫu có chết thì cái bi kịch ấy vẫn còn đó, nó chỉ chuyển sang đối tượng khác mà thôi, thì đến tác phẩm Vợ nhặt, Nam Cao đã để lại trong lòng độc giả nhiều trăn trở về cuộc sống tăm tối, bế tắc của người nông dân trong chế độ cũ. Còn với Vợ nhặt của Kim Lân, sự khác biệt vốn đã bắt đầu từ giọng văn ấm áp, nhẹ nhàng, nhân vật bước những bước đi rất khó khăn để vượt qua số phận khốn khổ và chí ít trong tầm mắt họ có thể nhìn thấy được một tương lai tốt đẹp hơn ở lá cờ đỏ sao vàng. Chí ít rằng xã hội mà Tràng đang sống họ có đủ hơi ấm tình người và nhân vật Tràng không hề cô đơn, anh luôn được sống trong yêu thương, nhân vật dẫu có đói khổ, nhưng vẫn rất giàu có về mặt tinh thần. Chính vì thế nên kết thúc của câu chuyện cũng là một cái kết mở rất khoáng đạt, mở ra trong lòng người đọc nhiều hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp cho nhân vật. Có thể nói, so với Nam Cao thì Kim Lân tập trung nhiều vào giá trị nhân văn, tác giả miêu tả hiện thực để nhấn mạnh cái giá trị nhân văn mà mình muốn truyền tải, chứ không dồn nhân vật vào đường cùng.
Sở dĩ có sự khác nhau giữa cách xử lý truyện như vậy, trước hết là phụ thuộc vào phong cách viết của tác giả. Nhưng yếu tố cốt lõi trong giá trị nhân văn của tác phẩm còn phụ thuộc khá lớn vào hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và góc nhìn của hai tác giả là hoàn toàn khác nhau. Với Nam Cao, ông viết Chí Phèo vào năm 1941, là những năm tháng khốn khổ cùng cực nhất của nhân dân ta, có lẽ, cách mạng đối với người nông dân Việt Nam là còn quá mơ hồ. Thế nên, khi viết Chí Phèo, rõ ràng Nam Cao chỉ nhìn rõ được hiện thực tàn khốc và bi kịch của người nông dân, nhưng không thể tìm ra được cách giải quyết và lối thoát cho họ, bởi chính bản thân ôngđang mắc kẹt giữa cuộc đời lắm bất công như nhân vật Hộ của Đời thừa. Ngược lại, Kim Lân viết Vợ nhặt lần đầu tiên sau khi cách mạng tháng Tám vừa thành công, thế nên, tác giả đặt niềm tin vào cách mạng. Chính vì thế cả nội dung và giọng văn của tác giả đều vô cùng tươi sáng và tích cực, hướng người nông dân đến một lối thoát, một cách giải quyết vô cùng hợp lý và tràn đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng của dân tộc.