Bằng độc quyền sáng chế và Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đều là hai hình thức bảo hộ sáng chế khác nhau như thế nào?
Bằng độc quyền sáng chế và Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đều là hai hình thức bảo hộ sáng chế. Tuy nhiên, hai hình thức này có một số điểm khác nhau như sau:
1. Về thời hạn bảo hộ:
Bằng độc quyền sáng chế hay Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đều có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì thời hạn bảo hộ đối với sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế là 20 năm kể từ ngày nộp đơn còn thời hạn bảo hộ đối với sáng chế được cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích chỉ là 10 năm.
2. Về điều kiện bảo hộ:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sáng chế được bảo hộ dưới hình thức Bằng độc quyền sáng chế phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
“- Có tính mới;
– Có tính sáng tạo;
– Có khả năng áp dụng công nghiệp”.
Mặt khác, cũng theo quy định tại khoản này, sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và chỉ cần đáp ứng hai điều kiện là có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp mà không cần điều kiện về tính sáng tạo.
Về tính mới của sáng chế, Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định như sau:
“1. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
2. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này;
b) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức”.
Đồng thời,
“Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương tự” (Điều 61 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
>>> Luật sư
Bên cạnh đó, căn cứ vào quy định tại Điều 62 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì :
“Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định”.
Như vậy, theo các quy định trên, chúng ta có thể thấy sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế phải đáp ứng điều kiện nghiêm ngặt hơn so với sáng chế được cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Ngoài ra, thuật ngữ Bằng độc quyền sáng chế được sử dụng thống nhất và chủ yếu bởi hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam. Mặt khác, ở một số quốc gia, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích được sử dụng với các thuật ngữ khác nhau như Mẫu hữu ích, sáng chế nhỏ hay Sáng chế ngắn hạn.