Nhằm giúp các em học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức và nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 11, chúng tôi đã biên soạn Sơ đồ tư duy Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có nội dung lịch sử hay và dễ nhớ nhất. Hãy cùng tham khảo những sơ đồ tư duy dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Sơ đồ tư duy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc dễ đọc:
2. Sơ đồ tư duy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc dễ hiểu:
3. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu:
3.1. Cuộc đời:
– Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) quê ở làng Tân Thới, huyện Bình Dương. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho. Năm 1843, ông đỗ tú tài.
– Năm 1846, ông vào Huế học và tiếp tục thi tú tài tại quê cha thì hay tin mẹ mất. Trên đường về chịu tang mẹ, anh bị đau mắt và bị mù. Ông trở về Gia Định, mở trường dạy học, bốc thuốc cứu dân.
– Khi giặc Pháp vào Gia Định, ông cùng các thủ lĩnh bày mưu, kế đánh giặc. Sau khi Nam Kỳ mất, ông trở về Bến Tre, hết lòng trung thành với dân với nước.
3.2. Tác phẩm:
– Bài văn được viết theo thể thơ Đường luật.
– Bài viết theo lời đề nghị của Tổng đốc Gia Định Đỗ Quang dâng lễ vật cho các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích đồn Cần Giuộc của Pháp đêm 16-12-1861.
– Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc không chỉ là sản phẩm nghệ thuật của cá nhân mà còn là tác phẩm mang tính dân tộc, thời đại.
4. Bố cục:
– Đoạn 1 (câu 1, 2 – lung): Hoàn cảnh chiến đấu và hi sinh của nghĩa quân.
– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 15 – như thực): Cảnh sinh hoạt và chiến đấu hào hùng của nghĩa quân.
– Đoạn 3 (từ câu 16 đến câu 23 – lời than khóc): Sự hi sinh cao cả của nghĩa quân.
– Đoạn 4 (từ câu 24 đến câu 30 – kết bài): Niềm tự hào và tiếc thương những người đã hi sinh.
5. Giá trị nội dung:
– Tiếng khóc bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu cho một giai đoạn lịch sử “nhục mà vĩ đại” của dân tộc trong cuộc đương đầu với kẻ thù xâm lược – thực dân Pháp, một trong những đế quốc quân phiệt hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
– Tượng đài bất tử các nghĩa sĩ và nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc. Hình ảnh những con người này hiện lên với vẻ đẹp bi tráng – vừa bi tráng nhưng không mất đi vẻ hào hùng, gân guốc.
– Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người nông dân có vị trí trung tâm, xuất hiện với cả vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất: Giản dị, chân chất giữa đời thường nhưng anh dũng bất chấp mọi hoàn cảnh ẩn nấp khi đứng trước họng súng của kẻ thù.
6. Phân tích tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất:
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng”. Đó là lời nhận xét của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về cuộc đời và thơ văn của Đồ Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ bị mù nhưng tâm luôn sáng. Nhắc đến ông, người ta không quên nhắc đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự đồng cảm, ngưỡng mộ của tác giả đối với các anh hùng liệt sĩ và nông dân Cần Giuộc đã hy sinh vì nước. Để phân tích văn bản một cách toàn diện và đặc sắc nhất, chúng tôi chọn con mắt và điểm nhìn từ tinh thần yêu nước của những người nghĩa sĩ nông dân.
Nhà từ thiện văn học cần phải bị trói buộc như một “tượng đài nghệ thuật trì trệ” mà lạ thay, thần thời gian vẫn chưa thể phá bỏ. Nguyễn Đình Chiểu – con người ấy đã xa chúng ta từ lâu nhưng những vần thơ, vần thơ của ông thì trẻ mãi, đỏ mãi.
Hỡi ôi!
Súng giặc đến rền Lòng dân trời tỏ.
Bộ tứ mở đầu được chia gọn gàng thành hai nửa nhưng sức khái quát của nó rất tuyệt. Chỉ bấy nhiêu chữ đã tóm gọn một cách bao quát và toàn diện những gì mà nhà văn muốn gửi gắm: tội ác và ý nghĩa, đau thương và cái đẹp, một bên là súng giặc, một bên là súng giặc trong cuộc chiến với lòng người.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.
Bây giờ thì rõ ràng, những gì tác giả có ý nghĩa. Đoạn thơ cho thấy sự đối lập, giữa “mười năm gian lao khai khẩn ruộng” và “một trận đánh Tây chính nghĩa” – sự vùng lên mạnh mẽ, dứt khoát, nhanh chóng của người nông dân. Mười năm mở cõi ít ai biết nhưng một trận đánh Tây chính nghĩa và hào hùng của dân tộc đã làm nên một “tiếng như mìn”. Tứ thơ như báo trước chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh và bi kịch tất yếu của họ.
Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn
Riêng lo nghèo khó.
Hình ảnh những con người bình dị hiện ra, những con người sẽ làm nên lịch sử ấy, họ không phải là người, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối để hy sinh vì nghĩa lớn. Họ đã hy sinh khi “Tổ quốc cần”. Và hình ảnh của họ trở nên đẹp đẽ từ đó. Họ chỉ là những người quen cày cuốc.
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:
Ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó
Cuộc sống của họ bình lặng, hàng ngày chỉ lăn lộn với miếng cơm manh áo nhưng cái nghèo vẫn đeo bám họ. Họ không bao giờ có thể tưởng tượng được chiến đấu. Lần đầu tiên nghe tin bị giặc Pháp giày xéo, họ cũng có tâm lý chung của “dân đen”, “con đỏ” là sợ hãi, mong chờ và thất vọng.
Dù hận thù chỉ bùng lên qua một khái niệm mơ hồ, nhưng cơn giận bùng cháy. Họ muốn lao ra tay trắng để “ăn tươi nuốt sống những kẻ đã gây nhiều tội ác”. Đọc đến đây, tôi chợt nhớ đến những ca từ trong trẻo, vang vọng trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn: “Ta thường quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau, nước mắt chảy dài”. Dừng lại, đau xé lòng người, thôi thúc người ta hành động, thôi thúc người ta “nuốt gan uống máu quân thù” để hoán cải. Đối với Cấn Văn Giác cũng vậy. cảm thấy nhục nhã nếu những “đứa con” đó chà đạp lên những giá trị tinh thần của dân tộc.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nhận thức được điều đó, họ quyết tâm khởi nghĩa. Họ vùng lên với tinh thần sẵn sàng tự nguyện.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ mường tượng về một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ không cần trốn khi tiếng gọi quê hương tha thiết đến thế. Họ biết chiến đấu, biết hy sinh để giữ bụi chuối, giữ mảnh đất mà họ biết gắn bó thân thương, giữ những điều thiêng liêng mà họ cho là không liên quan đến “ông cha” của mình. Hình ảnh của họ thật đẹp, tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh đó khác hẳn với người lính trước đây khi đối mặt với tiếng trống thúc giục của bọn bắt bớ “xuống thuyền nước mắt như mưa”.
Liệt sĩ Nguyễn Đình Chiểu khi vào trận vẫn một màu trong sáng, giản dị. Họ là những người “láng giềng” với vũ khí thô sơ, chỉ là ngọn tre, cọng rơm và cung tên, nhưng họ đã dệt nên những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật đẹp, thật anh hùng và đầy dũng khí. Bên trong “lớp áo chật” đáng thương và nhỏ bé ấy ẩn chứa biết bao điều lớn lao và cao quý.
Ngọn lửa bập bùng bằng rơm cúi xuống thiêu rụi căn nhà của người thầy tôn giáo kia, gươm dao rựa cũng chém đứt đầu hai gia đình.
Họ là những con người bình dị nhưng anh hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng, họ là những người hiền như đất, như khoai, nhưng khi đối mặt với kẻ thù, họ cũng không kém phần hung dữ. Họ hòa hợp với tinh thần đoàn kết của người Việt Nam. Tinh thần đoàn kết mà trước đây Nguyễn Trãi đã ca ngợi trong bài “Đại cáo bình Ngô”.
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ – của những con người cụ thể trong công cuộc đánh Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn chấn.
Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không
Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung như gươm xung trận trước sức mạnh ào ạt của nghĩa sĩ. Tiết tấu ngắn đã tạo nên khí thế chiến đấu hừng hực, mang hơi thở cận chiến. Trong khung cảnh ấy, giữa chiến trường vẫn có những người nông dân dũng cảm, oai phong. Giọng thơ khác hẳn giọng cáo của Nguyễn Trãi hàng trăm năm trước.
Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn
Với lối viết bình dân, giản dị, sử dụng nhiều thành ngữ, lời nói đời thường, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người nghĩa sĩ anh hùng, bi tráng. Thông qua “tượng đài nghệ thuật” ấy, tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. Sự hy sinh của các liệt sĩ trong lúc hoạn nạn là tiếng kêu cao cả của một trái tim giàu tình thương dân, yêu nước.
Sự hi sinh của các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã kết thúc, nhưng trang sử của dân tộc vẫn còn bỏ ngỏ. Và chúng ta – những người con của đất nước phải nhớ giữ lấy giá trị ngàn đời mà bao thế hệ, bao thế hệ đã dày công xây dựng nên đất nước và gấm vóc của ngày hôm nay. Những gì
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)