Sáng chế được xem là tài sản trí tuệ, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế xã hội, tạo năng lực cạnh tranh quốc gia lành mạnh. Vậy những sản phẩm đã đưa ra trên thị trường thì có được đăng ký sáng chế hay không?
Mục lục bài viết
1. Sản phẩm đã đưa ra thị trường có được đăng ký sáng chế?
Để có thể thực hiện được thủ tục đăng ký sáng chế và cấp văn bằng bảo hộ sáng chế, sản phẩm sáng chế cần phải đáp ứng được những điều kiện nhất định. Căn cứ theo quy định tại Điều 58 của Văn bản hợp nhất luật sở hữu trí tuệ năm 2022 thì sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Có tính mới;
– Có trình độ sáng tạo;
– Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Trong đó, “tính mới” của sáng chế được xem là một trong những điều kiện quan trọng nhất. Tính mới của sáng chế được coi là điều kiện tiên quyết để xét cấp bằng độc quyền sáng chế. Quy định về tính mới đối với sáng chế là tránh sự trùng lặp, tiết kiệm chi phí cho xã hội. Tính mới là một yêu cầu bắt buộc đối với một giải pháp kỹ thuật để được coi là sáng chế và được pháp luật bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền sáng chế. Đây không chỉ là quy định riêng của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ mà đó là một điều kiện mang tính quyết định khi chủ sở hữu muốn sáng chế của mình được bảo hộ trên phạm vi toàn thế giới. Xét dưới góc độ pháp luật thực định, pháp luật sở hữu trí tuệ đưa ra khái niệm về tính mới của sáng chế, theo đó, sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộc công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hay nước ngoài trước ngày nộp đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Đồng thời, cũng khẳng định sáng chế được coi là chưa bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người được biết và những người đó sẽ phải có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó. Khái niệm này đã phản ánh những nội dung cơ bản nhất cần có để một sáng chế đáp ứng điều kiện tính mới đó là sáng chế đó chưa bị bộc lộ công khai. Tuy nhiên, nếu xét dưới cả góc độ thực tiễn, tính mới của sáng chế phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
(i) Sự không trùng lặp với những giải phát kỹ thuật đã được nộp đơn hoặc được bảo hộ;
(ii) Chưa bị bộc lộ công khai ngoài ý muốn của chủ thể dưới hình thức sử dụng hoặc mô tả tới mức một người trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể thực hiện giải pháp đó. Trong đó, chưa được bộc lộ công khai được hiểu nếu chỉ có một số người biết về sáng chế đó như các thành viên trong nhóm nghiên cứu hay một số cơ sở nghiên cứu không liên quan đến nhau, song chưa ai trong số họ công bố kết quả nghiên cứu đó.
Vì vậy có thể nói, tính mới của sáng chế có nghĩa là bất kỳ sản phẩm nào khi muốn thực hiện thủ tục đăng ký sáng chế tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuy nhiên đã bị bộc lộ trước thời điểm nộp đơn đăng ký yêu cầu bảo hộ thì đều sẽ bị coi là không còn tính mới, đồng thời sẽ không thể thực hiện được thủ tục đăng ký bảo hộ sáng chế đó.
Vì vậy, trước khi đưa sản phẩm lưu thông trên thị trường hoặc trên các phương tiện truyền thông, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chủ sở hữu cần phải nộp đơn đăng ký sáng chế tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo đảm được tính mới và đáp ứng được đầy đủ các điều kiện bảo hộ.
Hay nói cách khác, sản phẩm đã đưa ra trên thị trường vẫn có thể sẽ được đăng ký sáng chế nếu trước khi đưa sản phẩm đó lưu thông trên thị trường, chủ sở hữu đã nộp đơn đăng ký sáng chế tại Cục Sở hữu trí tuệ.
2. Đối tượng nào không đáp ứng điều kiện bảo hộ sáng chế?
Căn cứ theo quy định tại Điều 59 của Văn bản hợp nhất luật sở hữu trí tuệ năm 2022 có quy định về những đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế. Cụ thể bao gồm:
– Các phát minh khoa học, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học;
– Sơ đồ, phương pháp để thực hiện hoạt động trí óc, kế hoạch, phương án, quy tắc thực hiện các hoạt động trí óc, nhằm mục đích huấn luyện vật nuôi, phương án để thực hiện các trò chơi hoặc kinh doanh của các cơ sở kinh doanh, các chương trình máy tính;
– Cách thức và phương pháp thể hiện thông tin nhất định;
– Các giải pháp và phương án chỉ mang một số đặc tính thẩm mỹ;
– Giống thực vật, giống động vật;
– Quy trình sản xuất thực vật, quy trình sản xuất động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình sản xuất vi sinh;
– Phương án phòng ngừa, phương pháp chuẩn đoán, phương pháp chữa bệnh cho người và chữa bệnh cho động vật.
Như vậy có thể nói, khi phát minh và sáng chế, nếu tác giả nhận thấy đáp ứng được đầy đủ các điều kiện đăng ký bảo hộ sáng chế thì có thể chuẩn bị hồ sơ để thực hiện thủ tục đăng ký cấp văn bằng bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, pháp luật sẽ không cho phép bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế đối với những đối tượng nêu trên.
3. Quy trình đăng ký bảo hộ sáng chế hiện nay:
Quy trình đăng ký bảo hộ sáng chế hiện nay được thực hiện như sau:
Bước 1: Các tổ chức và cá nhân có nhu cầu thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ sáng chế sẽ chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ để nộp tới cơ quan có thẩm quyền. Thành phần hồ sơ đăng ký bảo hộ sáng chế sẽ bao gồm các loại giấy tờ và tài liệu sau:
– Bản mô tả sáng chế và yêu cầu bảo hộ sáng chế;
– Tóm tắt về sáng chế;
– Giấy tờ và tài liệu xác nhận quyền đăng ký nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đăng ký từ người khác;
–
– Các loại giấy tờ chứng minh đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ tài chính, nộp đầy đủ phí và lệ phí.
Bước 2: Sau khi chuẩn bị bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ phải nộp hồ sơ tới cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp này được xác định là Cục Sở hữu trí tuệ. Có thể nộp trực tiếp hoặc nộp thông qua dịch vụ bưu điện.
Bước 3: Cục Sở hữu trí tuệ thẩm định đơn. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra việc tuân thủ các quy định về hình thức đối với đơn yêu cầu, từ đó đưa ra kết luận đơn có được coi là hợp lệ hay không. Trong trường hợp đơn hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định chấp nhận đơn hợp lệ. Trong trường hợp đơn không hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra thông báo dự định từ chối nhận đơn, trong thông báo đó cần phải nêu rõ lý do và thiếu sót khiến cho đơn có thể bị từ chối, ấn định khoảng thời gian hai tháng để người nộp đơn có ý kiến hoặc sửa đổi những thiếu sót đó. Nếu hết khoảng thời gian đó mà người nộp đơn vẫn không sửa chữa thiếu sót, hoặc có sửa chữa thiếu sót tuy nhiên vẫn không đạt yêu cầu, không có ý kiến phản đối, có ý kiến phản đối tuy nhiên ý kiến không xác đáng thì Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định từ chối nhận đơn.
Bước 4: Công bố đơn. Sau khi có quyết định chấp nhận đơn, đơn sẽ được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp. Sau đó tiếp tục tiến hành hoạt động thẩm định nội dung đơn. Thẩm định nội dung đơn sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật, tiến hành các hoạt động đánh giá khả năng được bảo hộ của đối tượng nêu trong đơn theo điều kiện bảo hộ, trong đó bao gồm: tính mới, trình độ sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp. Qua đó xác định phạm vi bảo hộ tương ứng với quy định của pháp luật.
Bước 5: Ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ hoặc từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Nếu đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng đầy đủ yêu cầu về bảo hộ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng đầy đủ yêu cầu về bảo hộ, người nộp đơn cũng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về lệ phí và đúng hạn, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, sau đó ghi vào sổ đăng ký quốc gia về sáng chế và công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH Luật Sở hữu trí tuệ;
– Nghị định 17/2023/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan;
– Nghị định 65/2023/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ.