Quyết định công nhận thuận tình ly hôn là văn bản tố tụng của Tòa án khi hai vợ chồng tự nguyện ly hôn, thỏa thuận được các vấn đề về con cái, tài sản. Tuy nhiên, nhiều người chưa nắm rõ thời điểm quyết định này phát sinh hiệu lực pháp luật. Bài viết sau đây sẽ phân tích rõ căn cứ và thời điểm quyết định có hiệu lực.
Mục lục bài viết
1. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn là gì?
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý:
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn là một loại quyết định trong hoạt động tố tụng dân sự, do Tòa án ban hành khi hai vợ chồng cùng đồng thuận chấm dứt quan hệ hôn nhân, đồng thời thống nhất được tất cả các vấn đề liên quan đến quyền nuôi con, cấp dưỡng, phân chia tài sản và các nghĩa vụ khác sau ly hôn.
Về bản chất, đây không phải là bản án vì không phát sinh từ một tranh chấp cần phân xử, mà là kết quả từ việc công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự. Vì vậy, quyết định này thuộc nhóm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên trong vụ việc dân sự theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Một số đặc điểm pháp lý của quyết định công nhận thuận tình ly hôn:
- Không trải qua thủ tục xét xử: Tòa án không mở phiên tòa xét xử công khai mà chỉ tiến hành thủ tục hòa giải và xem xét các thỏa thuận của đương sự;
- Yêu cầu sự tự nguyện, hợp pháp: Các bên phải tự nguyện thỏa thuận và nội dung thỏa thuận không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
- Có hiệu lực pháp luật ngay khi ban hành: Không cần chờ thời hạn kháng cáo như bản án ly hôn đơn phương;
- Không được kháng cáo: Quyết định chỉ có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu phát hiện vi phạm tố tụng hoặc có chứng cứ mới quan trọng.
Như vậy, quyết định công nhận thuận tình ly hôn vừa mang tính xác lập tình trạng pháp lý mới (đã ly hôn), vừa bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự theo nguyên tắc tự nguyện trong quan hệ hôn nhân.
1.2. Việc ra quyết định thuận tình ly hôn được pháp luật điều chỉnh như thế nào?
Việc ban hành quyết định công nhận thuận tình ly hôn được điều chỉnh bởi hai điều luật chính:
- Khoản 2 Điều 397 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Trường hợp các đương sự thống nhất được toàn bộ nội dung về việc ly hôn, quyền nuôi con, cấp dưỡng, chia tài sản và nội dung thỏa thuận là tự nguyện, hợp pháp thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Đây là quy định cho phép Tòa án không cần xét xử vụ việc mà chỉ cần xem xét tính hợp pháp và sự tự nguyện của thỏa thuận. Nếu đáp ứng điều kiện này, Tòa án ra quyết định thay vì mở phiên tòa;
- Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực pháp luật ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận thuận tình ly hôn là loại quyết định đặc biệt – có hiệu lực ngay tại thời điểm ban hành, giúp đương sự sớm ổn định cuộc sống sau ly hôn.
Ngoài ra, việc yêu cầu ly hôn thuận tình còn được điều chỉnh bởi Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, và thỏa thuận được toàn bộ các vấn đề thì Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn.
1.3. Sự khác biệt giữa bản án ly hôn và quyết định công nhận thuận tình ly hôn:
Việc phân biệt hai loại văn bản tố tụng là bản án ly hôn (trong ly hôn đơn phương) và quyết định công nhận thuận tình ly hôn (trong ly hôn thuận tình) có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nhất là về thủ tục, quyền kháng cáo, thời điểm có hiệu lực và bản chất pháp lý.
Tiêu chí | Quyết định công nhận thuận tình ly hôn | Bản án ly hôn (đơn phương) |
Loại vụ việc | Việc dân sự (yêu cầu) | Vụ án dân sự (tranh chấp) |
Thủ tục giải quyết | Không xét xử, chỉ xem xét hồ sơ, thỏa thuận và hòa giải | Có xét xử, tranh tụng, phiên tòa công khai |
Hiệu lực pháp luật | Có hiệu lực ngay khi ban hành | Có hiệu lực sau 15 ngày nếu không kháng cáo |
Quyền kháng cáo | Không có quyền kháng cáo phúc thẩm | Được quyền kháng cáo trong 15 ngày |
Khả năng xem xét lại | Giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có vi phạm tố tụng | Có thể kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc phúc thẩm |
Tính chất pháp lý | Ghi nhận sự thỏa thuận hợp pháp và tự nguyện | Giải quyết tranh chấp, xác định rõ người đúng/sai |
Sự khác biệt này thể hiện rõ mục đích và bản chất của từng thủ tục: thuận tình ly hôn nhằm ghi nhận ý chí tự nguyện, còn đơn phương ly hôn nhằm phân xử và giải quyết tranh chấp khi không thống nhất được.
2. Hiệu lực của quyết định công nhận thuận tình ly hôn: có từ khi nào?
2.1. Căn cứ pháp lý xác định thời điểm có hiệu lực:
Hiệu lực pháp lý của quyết định công nhận thuận tình ly hôn được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Điều này có nghĩa, kể từ thời điểm Tòa án ban hành quyết định công nhận thuận tình ly hôn – tức là ký và đóng dấu hợp lệ – thì quyết định này lập tức có hiệu lực thi hành. Việc không cho phép kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với loại quyết định này thể hiện nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên đương sự trong quan hệ hôn nhân và không cần tiếp tục tranh tụng.
Tuy nhiên, quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn được bảo lưu theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu: quyết định công nhận thuận tình ly hôn không cần thời gian chờ hiệu lực như bản án, không phụ thuộc vào việc giao nhận quyết định và có thể làm căn cứ để thực hiện các thủ tục hành chính liên quan ngay sau khi ban hành.
2.2. Trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm:
Dù quyết định công nhận thuận tình ly hôn không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, nhưng theo quy định tại Điều 332 và Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Viện kiểm sát hoặc người có thẩm quyền vẫn có thể thực hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với quyết định này.
Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ đặt ra trong các trường hợp có căn cứ cho rằng quyết định có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc xuất hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung quyết định. Trong thực tiễn, điều này thường xảy ra khi có dấu hiệu gian dối, che giấu thông tin giữa các bên khi thỏa thuận thuận tình ly hôn hoặc liên quan đến quyền lợi của con chưa thành niên, tài sản chung chưa được thỏa thuận minh bạch.
Tuy nhiên, việc có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không làm mất hiệu lực của quyết định tại thời điểm ban hành. Chỉ khi Tòa án cấp cao xem xét và tuyên hủy, sửa nội dung thì mới làm thay đổi tình trạng pháp lý. Do đó, quyết định công nhận thuận tình ly hôn vẫn được coi là có hiệu lực từ ngày ban hành, trừ khi bị thay đổi bằng quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2.3. Phân biệt với hiệu lực của bản án ly hôn đơn phương:
Khác với quyết định công nhận thuận tình ly hôn, bản án ly hôn đơn phương được quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 sẽ chỉ có hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị (15 ngày kể từ ngày tuyên án), nếu không có kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp có kháng cáo, bản án chỉ có hiệu lực khi có phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc khi bản án phúc thẩm có hiệu lực theo quy định.
Sự khác biệt này thể hiện rõ trong việc thi hành: trong khi quyết định thuận tình ly hôn được thi hành ngay thì bản án ly hôn đơn phương cần thời gian chờ để đảm bảo quyền kháng cáo của các bên. Điều này giúp cân bằng quyền lợi của bên không đồng thuận ly hôn.
Như vây, quyết định công nhận thuận tình ly hôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết nhanh chóng, chấm dứt ngay quan hệ hôn nhân. Trong khi đó, bản án ly hôn đơn phương phải tuân thủ thời gian hiệu lực theo trình tự xét xử hai cấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị đơn.
3. Hệ quả pháp lý khi quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực:
3.1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt:
Khi quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật, quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng chính thức chấm dứt. Căn cứ theo khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc ly hôn được công nhận hợp pháp khi Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Từ thời điểm quyết định này có hiệu lực, hai bên không còn là vợ chồng hợp pháp về mặt pháp lý.
Việc chấm dứt quan hệ hôn nhân mang đến nhiều hệ quả pháp lý liên quan đến các quyền và nghĩa vụ cá nhân giữa vợ và chồng như:
- Hai bên không còn ràng buộc về quyền và nghĩa vụ sống chung, tôn trọng, giúp đỡ nhau, chung thuỷ và thương yêu nhau như quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Hai bên có quyền kết hôn với người khác theo quy định của pháp luật nếu đủ điều kiện kết hôn;
- Không còn ràng buộc trong việc xác lập tài sản chung, nghĩa vụ liên đới trong một số giao dịch dân sự sau ly hôn (trừ những trường hợp đã phát sinh trước thời điểm chấm dứt hôn nhân).
Tòa án cũng chấm dứt việc thụ lý vụ án và không giải quyết thêm các yêu cầu nào khác nếu các vấn đề liên quan đã được hai bên thống nhất rõ ràng và hợp pháp trước khi ra quyết định.
3.2. Hiệu lực về quyền nuôi con và cấp dưỡng:
Căn cứ theo khoản 2 Điều 81 và khoản 1 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, khi quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực, việc nuôi con và cấp dưỡng được thực hiện theo sự thỏa thuận của hai bên đã được Tòa án ghi nhận trong quyết định. Quyết định có hiệu lực sẽ là căn cứ bắt buộc để các bên thực hiện các nghĩa vụ với con chung. Cụ thể:
- Người được giao nuôi con có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, đồng thời đảm bảo các quyền lợi về vật chất, tinh thần, y tế và học tập cho trẻ;
- Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng theo đúng thỏa thuận. Nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng, bên còn lại có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành, căn cứ theo Điều 119 Luật Thi hành án dân sự 2008.
Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, khi có căn cứ cho rằng việc thỏa thuận nuôi con không còn phù hợp với lợi ích của con, một trong hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, cho đến khi có bản án hoặc quyết định mới của Tòa án, quyết định công nhận thuận tình ly hôn vẫn có hiệu lực bắt buộc thi hành.
3.3. Hiệu lực về phân chia tài sản chung:
Việc phân chia tài sản chung là một nội dung quan trọng trong quyết định công nhận thuận tình ly hôn nếu hai bên có thỏa thuận. Theo khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trong trường hợp ly hôn, nếu vợ chồng thỏa thuận được với nhau về việc chia tài sản và thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Tòa án công nhận thỏa thuận đó và ghi nhận trong quyết định.
Căn cứ theo Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, việc giải quyết tài sản khi ly hôn tuân theo nguyên tắc tôn trọng sự tự thỏa thuận của các bên. Nếu các bên đã thỏa thuận rõ ràng và hợp pháp, Tòa án chỉ cần ghi nhận; quyết định công nhận thuận tình ly hôn khi đó có giá trị thi hành như bản án dân sự sơ thẩm.
Từ thời điểm quyết định có hiệu lực pháp luật, tài sản được chia cho mỗi bên trở thành tài sản riêng và các bên có toàn quyền định đoạt đối với phần tài sản của mình. Cụ thể:
- Đối với tài sản cần đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng như nhà đất, ô tô, xe máy, việc chuyển nhượng quyền phải được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đăng ký tài sản (ví dụ: Luật Đất đai, Luật Giao thông đường bộ);
- Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ giao tài sản như đã thỏa thuận và được Tòa án công nhận, bên còn lại có quyền yêu cầu thi hành án dân sự, căn cứ theo quy định tại Luật Thi hành án dân sự 2008;
- Trong trường hợp không có nội dung thỏa thuận chia tài sản hoặc thỏa thuận không rõ ràng, phần tài sản chung chưa được giải quyết được xem là chưa phân chia, các bên có thể khởi kiện vụ án dân sự mới để yêu cầu chia tài sản sau ly hôn, theo đúng hướng dẫn tại khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Ngoài ra, nếu Tòa án áp dụng chế độ tài sản theo pháp luật để giải quyết việc chia tài sản (do các bên không thỏa thuận được), thì cần tính đến nhiều yếu tố: hoàn cảnh của vợ chồng, công sức đóng góp, lỗi của mỗi bên và bảo đảm quyền lợi của con chưa thành niên hoặc con mất năng lực hành vi dân sự theo khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Như vậy, quyết định công nhận thuận tình ly hôn nếu có nội dung phân chia tài sản thì đó là căn cứ pháp lý buộc các bên phải thực hiện đúng thỏa thuận, có thể thi hành ngay khi có hiệu lực pháp luật và có thể yêu cầu cơ quan thi hành án can thiệp nếu có hành vi vi phạm.
THAM KHẢO THÊM: