Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Một số quan niệm về hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể?
Nền y học trên thế giới hiện nay đã có nhiều phát triển mạnh mẽ trong việc tìm tòi, khám phá ra các phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể con người. Đặc biệt, sự phát triển của y học, của giải phẫu học đã làm cho cuộc sống con người thay đổi kì diệu, từ chỗ con người có thể bị chết do một bộ phận cơ thể nào đấy bị bệnh, hỏng, con người lại có thể được tái sinh sự sống của mình qua việc được cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể. Vì vậy, nhu cầu về cấy, ghép mô, tạng ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới ngày càng lớn.
Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy, ghép mô; bộ phận cơ thể và tạo nguồn cung cấp mô, tạng dồi dào phục vụ cho việc cứu chữa người bệnh và nghiên cứu khoa học, pháp luật về quyền hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người đã được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 với tư cách là quyền nhân thân của cá nhân, gắn liền với mỗi cá nhân nên không thể chuyển giao cho người khác và được cụ thể hóa trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006.
1. Pháp luật Việt Nam về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể
– Các nguyên tắc của việc hiến xác, bộ phận cơ thể:
Căn cứ Điều 4 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 cũng quy định về việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác phải tuân theo những nguyên tắc sau:
“- Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép.
– Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
– Không nhằm mục đích thương mại.
– Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
+ Về nguyên tắc tự nguyện: Tự nguyện là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất trong luật dân sự, chỉ có sự tự nguyện mới bảo đảm được sự tự định đoạt của chủ thể. Để có sự tự nguyện, người hiến tặng phải có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Vì vậy, pháp luật quy định những người hiến tặng phải là người có năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 6 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác thì:
“1. Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật.”
Quy định này cũng phù hợp với Luật hôn nhân gia đình 2014 về độ tuổi kết hôn nên việc hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi chỉ cần sự tự nguyện và đồng ý của chính chủ thể và tự họ có thể thực hiện được dễ dàng và không ảnh hưởng đến bất kì người thân nào của họ. Do đó, việc thực thi điều này trên thực tế mang tính khả thi cao. Tuy nhiên, việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết thường liên quan đến thân nhân của người hiến cho nên trên thực tế tính khả thi không cao. Luật hiện nay không quy định cần phải có sự đồng ý của thân nhân người hiến tặng, do đó trong trường hợp nếu những thân nhân của người đó không đồng ý thì có cưỡng chế họ được không và ai là người cưỡng chế. Đây là một lỗ hổng mà pháp luật giải quyết chưa thấu đáo để sao cho hợp lí và hợp tình.
Xoay quanh vấn đề tử tù tự nguyện hiến xác sau khi thi hành án, đến nay đã có nhiều tử tù có nguyện vọng hiến xác nhưng các quy định về thi hành án tử hình lại không đề cập đến vấn đề này. Cũng có nhiều ý kiến thể hiện các quan điểm công nhận sự tự nguyện hiến xác của các tử tù nhưng cũng có một số lo ngại về mặt tâm lý, phong tục tập quán cũng như truyền thống. Đó là sự quan ngại những người bị tử hình là người nguy hiểm cho xã hội, việc tước đi quyền được sống của họ là loại bỏ đi con người không đáng được sống này nên không cần sử dụng các bộ phận cơ thể của họ nữa. Hay sự lo sợ khi những người được cấy ghép các bộ phận cơ thể biết được rằng đây là bộ phận của người tử tù. Xét về mặt y học một cơ thể chết đi thì xác chết đó là một thực thể vô tri vô giác. Nếu nhìn nhận như thế thì cái xác này không có tội mà còn có rất nhiều lợi ích cho y học và khoa học. Nó có thể cứu sống được rất nhiều người khi được sử dụng đúng cách và đúng pháp luật.Vướng mắc duy nhất là sự thừa nhận của pháp luật thi hành án tử hình đối với việc các tử tù được tự nguyện hiến xác cho khoa học và xã hội.
+ Về nguyên tắc không nhằm mục đích thương mại: Theo các công ước quốc tế về nguyên tắc thì mô, bộ phận cơ thể không được coi là hàng hóa và không được coi là có tính thương mại (tức có thể trao đổi mua bán). Tuy nhiên qua pháp luật các quốc gia và qua các nghiên cứu có thể thấy pháp luật quy định là vậy nhưng quan điểm vẫn còn khác nhau. Một số nước quy định trực tiếp trong luật là không thừa nhận tính thương mại của mô, bộ phận cơ thể người và thậm chí không coi mô, bộ phận cơ thể như một tài sản theo nghĩa thuần túy có thể trao đổi, mua bán, tiêu biểu cho quan điểm này là Pháp, Đức… Quan điểm khác cho rằng nên thừa nhận hiến mô, tạng vì mục đích thương mại vì bộ phận cơ thể là tài sản, mỗi cá nhân khi cho đi một phần bộ phận cơ thể, họ có quyền nhận lại một lợi ích vật chất nhất định đó là quyền hoàn toàn chính đáng và đảm bảo người mua, kẻ bán, người trung gian đều có lợi trong vấn đề này. Mặt khác nhu cầu về ghép bộ phận cơ thể trên thực tế là rất lớn, nhiều người sẵn sàng bỏ tiền ra để có được thứ mình cần. Bên cạnh hai quan điểm trên có quan điểm dung hoà hơn là họ cho rằng nên thừa nhận việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại nhưng trong một giới hạn nhất định. Để lập luận cho quan điểm của mình họ đưa ra ví dụ như: một người phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng họ bị Toà án tuyên tử hình mà gia đình họ rất khó khăn cha mẹ họ già cả không có khả năng lao động, họ muốn bán bộ phận cơ thể mình để lấy một khoản tiền nhất định đền đáp công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ mà họ đã không thực hiện được, đương nhiên việc bán này phải được giữ bí mật.
Mặt khác họ biện luận rằng pháp luật cấm hiến mô, tạng vì mục đích thương mại nhưng tính khả thi không cao vì giữa người cho và người nhận họ thoả thuận với nhau, anh bán tạng cho tôi, tôi sẽ trả anh một khoản tiền nhất định nhưng để che giấu pháp luật họ thể hiện ra ngoài là hiến một cách tự nguyện không cưỡng ép, ép buộc đây là thỏa thuận trái pháp luật vì bộ phận cơ thể người không phải là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá. Biết là trái pháp luật nhưng liệu pháp luật có kiểm soát được? Do đó chúng ta chúng ta cần có cái nhìn đa diện về vấn đề này, đây là những vấn đề rất thực tế mà chúng ta, đặc biệt là những nhà làm luật cần xem xét để có được lựa chọn phù hợp.
Điều 35 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.” và Điều 4 Luật Hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006 ghi nhận vấn đề này thành nguyên tắc “Không nhằm mục đích thương mại”. Việc pháp luật Việt Nam nghiêm cấm việc sử dụng bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại là hợp lý, bởi:
– Về mặt thuật ngữ bản thân từ “hiến” cũng thể hiện rõ tính tự nguyện của việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người mà không cần đòi hỏi bất kỳ sự trao đổi lợi ích vật chất nào do đó đã nói đến hiến thì không thể vì mục đích thương mại mà vì mục đích cao quý hơn rất nhiều đó là nhằm cứu chữa người bệnh hoặc vì mục đích phục vụ sự nghiệp nghiên cứu y học tìm ra những phương thức để phòng, chữa trị cho những người mắc bệnh hiểm nghèo.
– Đó là sự tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tình cảm đó không thể cân, đong, đo, đếm để quy ra tiền bạc được.
– Bộ phận cơ thể người mặc dù có tính giá trị và giá trị sử dụng nhưng nó không phải là cái con người có thể tạo ra trong quá trình sản xuất mà đó là tạo hoá ban tặng cho mỗi người và nó tạo thành sự thống nhất của cơ thể con người để con người có thể tồn tại và phát triển bình thường, nó gắn liền với quyền nhân thân của mỗi người do đó nó không được coi là hàng hoá như vậy nó đương nhiên là không được phép trao đổi mua bán trên thị trường vì mục đích thương mại.
Nói đến vấn đề này, không nên đồng nhất tính thương mại của việc hiến xác, bộ phận cơ thể người với việc người hiến xác, bộ phận cơ thể được đền bù một lợi ích nhất định. Đây là hai vấn đề đều đem lại lợi ích cho người hiến xác, bộ phận cơ thể người, tuy nhiên hai vấn đề này nó lại tác động theo hai hướng khác nhau. Nếu hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại trả tiền mua bán như tài sản thông thường không phù hợp với văn hoá và đạo đức xã hội của nước ta, thậm chí là trái pháp luật và tạo ra những tác động xấu đối với đời sống xã hội, tới hoạt động quản lý việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người. Ngược lại việc đền bù cho người hiến xác, bộ phận cơ thể người như người hiến hoặc thân nhân của họ có thể nhận được những ưu đãi, hỗ trợ nhất định về y tế, thậm chí về kinh tế… không mang tính ngang giá mà xuất phát từ tình cảm, từ sự tri ân là phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức của người Việt Nam.
+ Về nguyên tắc giữ bí mật các thông tin liên quan đến người hiến: Có thể thấy hầu hết các quốc gia đều quy định giữ bí mật về thông tin giữa người hiến cũng như người nhận là một nguyên tắc quan trọng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Việc quy định nguyên tắc này là một sự dự phòng rất hợp lý của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của cả người hiến cũng như người nhận. Xét theo hướng tích cực, việc thân nhân người hiến biết thông tin về người được ghép bộ phận cơ thể của người thân mình sẽ giúp họ gặp người ấy để xoa dịu nỗi đau về tinh thần, còn người được ghép gặp lại có thể bày tỏ lòng biết ơn với người hiến, gia đình họ. Nhưng bên cạnh mặt tích cực chúng ta cũng phải quan tâm đến mặt tiêu cực của nó vì khi một người chết hiến xác, bộ phận cơ thể nỗi đau thường thuộc về người còn sống, có thể gia đình người chết thì không vượt qua hiện thực người thân mình đã chết còn người được ghép thì họ khó quay lại hiện thực cuộc sống của chính mình bởi những ám ảnh cuộc sống của một người khác hoặc của một phần thân thể người khác tồn tại trong cơ thể của mình hoặc hiện tượng người thân của người được hiến không hiểu; không đồng ý cho hiến, không chấp nhận thậm chí cho rằng người được ghép đã cướp đi cuộc sống của người thân mình dẫn tới sẽ có những việc làm bất lợi cho người được nhận ghép (đòi tiền, quấy rối, đe doạ…). Mặt khác cuộc đời người hiến và người được ghép rất khác nhau nếu không thông cảm hoặc không chấp nhận được cuộc đời nhau thì tốt nhất là không nên biết về nhau.
Tuy nhiên, nếu tuân thủ hoàn toàn nguyên tắc này thì sẽ đi ngược lại quyền của trẻ em được biết nguồn gốc huyết thống của mình trong trường hợp sinh con bằng xin trứng, xin tinh trùng.
2. Chủ thể của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể
– Về năng lực chủ thể, quyền hiến bộ phận cơ thể và hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là những quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể hay không. Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định:
“Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Nếu độ tuổi là một dấu hiệu định lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ thể thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi là dấu hiệu định tính để xác định xem cá nhân đã hoàn thiện về mặt tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.
Tuy nhiên, quy định về độ tuổi này có phần cứng nhắc và không phù hợp với một số quy định khác. Ví dụ tại khoản 2 Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; hay tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi. Như vậy cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có những sự phát triển nhất định cho phép khả năng suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, vậy không có lý do gì khi họ phải chịu trách nhiệm về việc làm sai của mình mà lại không có quyền được thực hiện một lựa chọn có ích cho cộng đồng. Điểm b, khoản 2 Điều 22 Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 có quy định: trong trường hợp người chết không có thẻ đăng ký hiến xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó. Nếu người chết ở đây không có thẻ đăng ký hiến thì bắt buộc phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc gia đình họ, nhưng người chết có bắt buộc phải từ 18 tuổi trở lên không? Điều này vẫn chưa được luật quy định.
Về điều kiện năng lực hành vi dân sự đầy đủ của chủ thể hiến bộ phận cơ thể, hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết cũng là vấn đề đáng lưu ý và hiểu một cách thấu đáo. Đặc biệt là khi chủ thể hiến bộ phận cơ thể, hiến xác là tử tù – chủ thể được coi là “đặc biệt”.
– Về điều kiện sức khỏe người hiến, điều kiện sức khỏe người hiến bộ phận cơ thể, hiến xác là điều kiện vô cùng quan trọng đặc biệt là đối với việc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người nhận các bộ phận đó. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy nhầm bộ phận cơ thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị đe dọa nghiêm trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh thần cho người hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết phải được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể người hiến cần phải đáp ứng được điều kiện gì về sức khoẻ. Nhưng theo quy định tại Quyết định số 43/2006/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho người bệnh thì trong Quyết định này có chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y như: viêm gan B, nhiễm HIV, …
Tuy nhiên, đó là điều kiện về sức khỏe người hiến nói chung, nhưng hiến bộ phận cơ thể, hiến xác có rất nhiều mục đích khác nhau như chữa bệnh, nghiên cứu khoa học,…Vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống và hiến sau khi chết có khác nhau không và điều kiện về sức khỏe có đặt ra như nhau trong trường hợp hiến vì các mục đích khác nhau không? Trường hợp hiến vì mục đích chữa bệnh và mục đích nghiên cứu khoa học có sự khác nhau về điều kiện sức khỏe của người hiến bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy có nhiều trường hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nhưng vẫn có thể hiến và được sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học. Như vậy, cần quy định cụ thể hơn về điều kiện sức khỏe người hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
– Quy định về trình tự, thủ tục về hiến ghép mô, bộ phân cơ thể và các quy định khác:
Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định về trình tự, thủ tục hiến bộ phận cơ thể, hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết khá chi tiết, tuy nhiên chỉ quy định đối với trường hợp hiến vì mực đích chữa bệnh, còn những mục đích khác như giảng dạy, nghiên cứu khoa học thì vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có quy định.
Ngoài ra, Điều 17, Điều 25 của Luật nêu rất cụ thể về quyền lợi cũng như tôn vinh những người hiến mô, bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết. Tuy nhiên, Luật lại không có điều nào tôn vinh về mặt tinh thần cho gia đình người hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. Theo chúng tôi, đây là một thiếu sót của Luật. Vì thực tế, khi một người bị mất đi, nỗi đau sẽ thuộc về những người còn sống. Và để lấy được xác, bộ phận cơ thể của người chết cũng phải có sự ủng hộ rất lớn của gia đình họ. Hơn nữa, trong trường hợp người chết không có đơn tự nguyện hiến nhưng gia đình họ đồng ý hiến bằng văn bản thì vẫn được lấy, trường hợp đó lại càng cần phải tôn vinh.
Thêm nữa, thực tế những năm vừa qua cho thấy, việc dùng tử thi vô thừa nhận đã góp phần cứu chữa được nhiều người bệnh, đặc biệt là những người mắc bệnh về mắt (ghép giác mạc, kết mạc). Tuy nhiên, Luật cũng chưa định nghĩa thế nào là tử thi vô thừa nhận; tử thi vô thừa nhận khác gì với tử thi không hoặc chưa xác định được người thân thích là ai. Có những trường hợp dùng tử thi vô thừa nhận để nghiên cứu khoa học nhưng sau đó người nhà đến yêu cầu trả lại thi thể thì phải giải quyết ra sao. Điều này pháp luật vẫn chưa có quy định
3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể.
– Một là, về các nguyên tắc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể thì việc bảo đảm an toàn sức khỏe, tính mạng, tâm lý cho người hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống đóng vai trò quan trọng, thậm chí việc thực hiện vấn đề này có vai trò quyết định đến số lượng người tham gia hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống. Ở nước ta về quy trình thủ tục lấy mô, bộ phận cơ thể được quy định khá chặt chẽ, tuy nhiên cần quy định vấn đề bảo đảm sức khỏe, tính mạng và tâm lý trở thành một nguyên tắc của luật là cần thiết. Pháp luật Việt Nam nên quy định cụ thể bảo đảm an toàn y tế là một nguyên tắc trong hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người.
– Hai là, về cơ chế đồng ý trong hiến mô, bộ phận cơ thể người. Pháp luật hiện hành của chúng ta quy định việc hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như sau khi chết theo cơ chế chủ động đồng ý (chủ động đăng ký hiến bằng văn bản, nếu không đăng ý hiến thì con như người đó không đồng y hiến). Nghiên cứu quy định các quy định pháp luật nước ngoài về cơ chế suy đoán sự đồng ý ở Tây Ban Nha, ở một số nước Bắc Âu hay ở Pháp, chúng ta thấy những nước thực hiện theo cơ chế này rất hiệu quả lượng người hiến mô tạng nhiều hơn hẳn so với các nước theo cơ chế suy đoán sự đồng ý. Hơn nữa nhiều nước trên thế giới đã quy định theo cơ chế chủ động đồng ý cũng đang vận động cho việc chuyển sang cơ chế suy đoán sự đồng ý hiến, đặc biệt là hiến sau khi chết, bởi chúng ta thấy đa phần mô tạng phục vụ mục đích chữa bệnh ở các nước phát triển được lấy từ người chết hiến tặng. Hơn nữa ở các nước này, để tránh việc trái với ý nguyện của người hiến trước khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền còn trao đổi lại với gia đình người không đăng ký từ chối hiến về mong muốn, ý nguyện của người chết về có phản đối hay không việc hiến mô, bộ phận cơ thể, nếu mà họ không đăng ký từ chối hiến nhưng người thân thích của họ xác nhận là người chết đó phản đối việc hiến thì cơ sở y tế cũng không tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể người. Do vậy việc nghiên cứu quy định cơ chế suy đoán sự đồng ý là cần thiết.
– Ba là, nên bổ sung việc cho, nhận tế bào, việc ghép tủy, ghép tế bào gốc liên quan đến tủy sống thuộc lĩnh vực huyết học và cần có các quy định về máu vào phạm vi điều chỉnh của Luật.
– Bốn là, mở rộng phạm vi chủ thể, cho phép người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền hiến nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của họ đồng ý.
– Năm là, nên sớm có quy định về trình tự, thủ tục đối với việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học. Và nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh. Vì vậy, dù là người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận được
– Sáu là, về thẩm quyền xác định chết não: Nếu quy định như điểm c, khoản 2, Điều 27 của Luật sẽ có nhiều trường hợp phải chờ sự có mặt của các chuyên gia pháp y, mà hiện nay chuyên gia pháp y ở nước ta không nhiều. Do đó, sẽ kéo dài thời gian vàng cho phép lấy những bộ phận tạng được hiến ở điều kiện tốt nhất, chỉ bảo quản được trong thời gian ngắn. Việc xác định chết não nên giao cho một hội đồng độc lập gồm các chuyên gia thuộc chuyên khoa hồi sức, hồi sức tích cực nội – ngoại thần kinh đánh giá dựa trên dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của khoa học kỹ thuật y học hiện đại. Sau khi hội đồng có kết luận thống nhất thì thủ trưởng cơ sở y tế đó sẽ ra quyết định cuối cùng.
– Bảy là, về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết ở khoản 4 Điều 12 cũng như khoản 4, Điều 18 của Luật có nêu: trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi. Vì vậy, đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều 18 theo hướng sau:
“Cơ sở y tế có trách nhiệm mời người hiến đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho người hiến biết”.
Tám là, điểm a, khoản 2, Điều 17 của Luật cần làm rõ hơn về quy định khám sức khoẻ định kỳ bởi quy định này quá chung chung và khó thực hiện trên thực tiễn. Do đó, đề nghị sửa điểm a, khoản 2, Điều 17 của Luật hoặc quy định giải thích ở một văn bản dưới luật như sau:
“Được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi hiến bộ phận cơ thể tại cơ sở y tế, được khám định kỳ miễn phí và được điều trị miễn phí với những bệnh lý trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra từ việc hiến mô, bộ, phận cơ thể người”.
– Chín là, cần bổ sung Điều 25 theo hướng tôn vinh gia đình của người hiến, bởi những người thân thích của người chết đóng vai trò rất quan trọng trong việc người thân của mình có thể hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể người. Kết hợp tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền cũng như trang bị kiến thức tới toàn dân về quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác để người dân có thể có thể nhận thức được về tính cấp thiết cũng như tính nhân văn sâu sắc của vấn đề này
– Mười là, về điều kiện đối với việc lấy xác người không có địa chỉ cư trú cuối cùng (điểm c, khoản 2, Điều 22): cần có sự phân biệt giữa tử thi vô thừa nhận và tử thi chưa xác định được người thân thích. Nếu trường hợp là tử thi vô thừa nhận không có người thân thích thì cần thời gian lưu xác để xác định chính xác điều đó trước khi lấy mô, bộ phận cơ thể hoặc lấy xác của họ. Còn nếu trường hợp tử thi mà chưa xác định được người thân thích thì Uỷ ban nhân dân xã nơi người đó chết không có quyền được hiến cho cơ sở y tế, vì nó có thể dẫn đến nhiều sự phức tạp như sự lạm dụng, che giấu tội phạm, thậm chí là mua bán mô tạng bất hợp pháp…, do đó, cơ quan có thẩm quyền rất khó kiểm soát tình hình. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm này.
– Mười một, Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy định là không cho mang xác tù nhân ra khỏi pháp trường (tức là xác phải chôn trong pháp trường) đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần phải có sự cân nhắc thận trọng giữa việc đảm bảo an ninh, an toàn và vấn đề nhân đạo, sức khỏe nhân dân.
– Mười hai, cho phép cá nhân có thể lập di chúc thể hiện ý nguyện hiến xác sau khi chết.
– Mười ba, nhanh chóng triển khai thành lập trung tâm điều phối quốc gia, tiếp tục phát huy vai trò của ngân hàng mô cũng như tăng cường hơn nữa hệ thống trang thiết bị y tế cùng đội ngũ y bác sĩ có trình độ tay nghề cao nhằm đảm bảo cho việc khám chữa bệnh và đảm bảo sức khỏe cho người dân.