Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thực hiện việc buộc tội người đó trước Tòa án.
Mục lục bài viết
1. Quyền công tố là gì?
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát có hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của Viện kiểm sát . Mặc dù vậy, cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung, trong thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về các vấn đề này cả trên phương diện khái niệm, nội dung, đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cũng như mối quan hệ giữa chúng. Để từng bước nâng cao hiệu quả và dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm sát, điều không thể thiếu được là cần phải làm rõ từ trong nhận thức về các vấn đề cơ bản có liên quan đến các hoạt động chức năng này: Khái niệm thế nào là thực hành quyền công tố, thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu về quyền công tố khái niệm, nội dung, phạm vi và đối tượng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.
Từ điển Luật học định nghĩa về quyền công tố như sau: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” .
Theo nghĩa hẹp, nội dung của quyền công tố chỉ được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc hoạt động điều tra tội phạm và vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố người đã thực hiện hành vi phạm tội trước Tòa án và chấm dứt sau khi Tòa án xét xử, tuyên một bản án (quyết định có hiệu lực pháp luật đối với người đó, tức là trong giai đoạn của hoạt động tư pháp hình sự truy tố bị can ra Tòa và buộc tội bị cáo của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử của Tòa án.
Theo nghĩa rộng, nội dung của quyền công tố được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ khi bắt đầu hoạt động điều tra tội phạm, tiếp đó là vụ án hình sự được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố người đã thực hiện hành vi phạm tội trước Tòa án và chấm dứt khi Tòa án xét xử, tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó, tức là trong ba giai đoạn của hoạt động tư pháp hình sự – điều tra tội phạm, truy tố bị can và bị xét xử bởi Tòa án.
Để xác định đúng đắn khái niệm quyền công tố cần phải xuất phát từ những cơ sở có tính nguyên tắc sau đây:
Một là, quyền công tố là quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất của Nhà nước. Với tính chất là một quyền lực công, được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ nhà nước nào cũng đều cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường tồn tại của Nhà nước, là trách nhiệm xã hội của Nhà nước chứ không phải trách nhiệm của cá nhân hay một nhóm người, bởi vì Nhà nước nói chung “dường như là người nhân danh xã hội duy trì xã hội trong vòng trật tự.
Hai là, quyền công tố là quyền lực công nghĩa là khi có vụ việc xâm phạm lợi ích chung thì phải được phát hiện và đưa ra xử lý một cách công khai bằng con đường Tòa án. Đây cũng là điểm chung cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về quyền công tố – quyền đưa vụ án ra tòa và “buộc tội” người phạm pháp tại Tòa án. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng không có nghĩa cứ phải đưa vụ án ra Tòa mới là thực hành quyền công tố , vì cũng như các quyền năng tố tụng khác, nó được thể hiện ở các giai đoạn khác việc thực hiện quyền đó. Các quyền năng ấy, trong đó có quyền công tố vì có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác động của quyền công tố có đủ căn cứ để cơ quan tố tụng ra những quyết định tố tụng. Như vậy để làm rõ phạm vi của quyền công tố không thể không xem xét đến các căn cứ làm triệt tiêu quyền công tố.
Ba là, quyền công tố theo bản chất của mình là quyền yêu cầu trừng trị công khai những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung, do đó quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan thực hiện và được gọi là cơ quan công tố (ở nước ta là Viện kiểm sát ). Đây là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết để phân biệt quyền công tố với các thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng khác với cơ quan điều tra, Tòa án, hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự.
Từ những phân tích trên, khái niệm quyền công tố được hiểu như sau:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thực hiện việc buộc tội người đó trước Tòa án.
2. Đặc điểm của quyền công tố:
Thứ nhất, C.Mác đã khẳng định: “Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra...”, theo quan niệm này thì quyền công tố là khái niệm pháp lý xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố bảo đảm cho Nhà nước có khả năng xử lý tội phạm – một hiện tượng xã hội xuất hiện, tồn tại khách quan trong xã hội có Nhà nước. Khi Nhà nước xuất hiện, ngoài nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, để duy trì sự xung đột xã hội trong vòng trật tự do Nhà nước thiết lập, Nhà nước đã giành lấy quyền trừng trị những hành vi xâm hại lợi ích chung từ tay cá nhân (sự thay thế quyền tư tố bằng quyền công tố). Vì vậy, quyền lực Nhà nước cũng được hiểu là quyền lực công cộng, theo đó quyền công tố với tính chất là công quyền hoàn toàn không thể tách rời sự ra đời của Nhà nước.
Thứ hai, quyền công tố được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự , bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi có phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. GS.TSKH Lê Văn Cảm đã khẳng định tại công trình “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố” như sau:
Chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm, thì khi ấy và ở đó mới có thể nói đến sự buộc tội nhân danh Nhà nước – chức năng quan trọng nhất của quyền công tố; quyền công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể đã được thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể, không tồn tại quyền công tố chung chung.
Quyền công tố cũng có thể kết thúc trước khi mở phiên tòa khi có đủ căn cứ để giải quyết vấn đề TNHS đối với người bị tình nghi phạm tội (Theo quy định của BLtố tụng hình sự năm 2015 thì quyền công tố có thể bị triệt tiêu trong giai đoạn điều tra, truy tố, giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với bị can hoặc trước khi mở phiên tòa, VKS có căn cứ rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự .
Thứ ba, quyền công tố được giao cho CQCT để thực hiện truy tố người phạm tội ra xét xử trước Toà án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó nên quyền công tố gắn liền với quyền tài phán của Tòa án. Trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố nhưng các quan điểm này đều thống nhất khẳng định một trong những nội dung của quyền công tố là quyền truy tố người phạm tội ra trước Toà án và thực hiện việc buộc tội tại phiên toà. Có thể nói, quyền công tố là bước khởi đầu cho quyền tài phán bởi Toà án chỉ có thể xét xử người phạm tội khi mà CQCT đại diện cho Nhà nước truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
Thứ tư, quyền công tố tồn tại độc lập đối với quyền tài phán của Toà án và CQCT độc lập với cơ quan điều tra. Quyền công tố theo bản chất của mình là quyền yêu cầu trừng trị công khai những hành vi phạm tội, do đó để đảm bảo tính khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với quyền tài phán của Toà án. Cùng với sự phát triển của Nhà nước, quyền công tố dần hình thành là một chế định pháp lý độc lập trong tố tụng hình sự . Về mặt nguyên tắc, quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan thực hiện (CQCT), độc lập với Toà án, cơ quan điều tra .
3. Thực hành quyền công tố là gì?
Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền lực công của Nhà nước, gắn liền bản chất Nhà nước. Để đảm bảo thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội, Nhà nước thể chế những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố vào luật tố tụng hình sự và giao cho CQCT thực hiện các quyền năng đó để phát hiện và thực hiện truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
CQCT thực hành quyền công tố phải là một cơ quan nhà nước và là một cơ quan độc lập với cơ quan điều tra và Toà án. Trong nghiên cứu của mình về quyền công tố, C.Mác khẳng định: “Sự trừng phạt là quyền của Nhà nước, không thể chuyển giao cho tư nhân”. Quyền công tố là quyền lực công thuộc về Nhà nước nên thực hành quyền công tố phải do cơ quan Nhà nước được giao tiến hành các hoạt động pháp lý quy định trong luật tố tụng hình sự để thực hiện chức năng buộc tội. Để đảm bảo tính khách quan, công bằng trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự thì CQCT phải là một cơ quan Nhà nước độc lập. cơ quan điều tra , cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra cũng tham gia vào quá trình buộc tội như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra nhưng cơ quan điều tra không phải CQCT mà đóng vai trò là một thiết chế quan trọng hỗ trợ CQCT thu thập chứng cứ xác định tội phạm, người phạm tội. Chỉ có cơ quan có thẩm quyền đầy đủ và độc lập thay mặt Nhà nước truy tố người phạm tội ra Toà án để xét xử và thực hiện việc buộc tội của Nhà nước tại phiên toà mới là chủ thể thực hành quyền công tố .
Quyền công tố có nội dung là sự buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nên nội dung của thực hành quyền công tố là việc CQCT sử dụng những quyền năng được quy định trong tố tụng hình sự để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. thực hành quyền công tố bắt đầu kể từ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự và kết thúc khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án không bị kháng nghị.
CQCT của nước ta là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát. Ngay từ khi thành lập vào ngày 26 tháng 7 năm 1960, VKS đã được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng công tố “truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm pháp hình sự”, bên cạnh chức năng chủ yếu khi đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự của nước ta thời điểm trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định phạm vi của thực hành quyền công tố chỉ giới hạn bắt đầu kể từ khi VKS thực hiện “kiểm sát việc khởi tố, tự mình khởi tố vụ án hình sự và chuyển đến cơ quan điều tra để yêu cầu tiến hành điều tra, trực tiếp điều tra” hay “quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can”. Việc quy định phạm vi thực hành quyền công tố chỉ bắt đầu kể từ giai đoạn điều tra đã giới hạn phạm vi thực hành quyền công tố hẹp hơn phạm vi của quyền công tố dẫn đến câu hỏi đặt ra là cơ quan sẽ tiến hành hoạt động công tố trước khi tội phạm bị khởi tố. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã trả lời câu hỏi đó bằng cách quy định bổ sung hoạt động pháp lý tố tụng hình sự của VKS trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm tại điểm a, b khoản 2 Điều 41 của Bộ luật:
– Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; – Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập, tách vụ án.
Từ đó mở rộng phạm vi của thực hành quyền công tố bằng với phạm vi của quyền công tố, đồng thời, đánh giá đúng bản chất, phạm vi hoạt động pháp lý tố tụng hình sự của VKS trong việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố như sau: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng quyền năng pháp lý trong tố tụng hình sự của cơ quan công tố (tại Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân) để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra xét xử trước tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó.
Trong giới hạn của luận văn, học viên trình bày nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, có nghĩa là đi tìm hiểu việc VKS sử dụng quyền năng pháp lý trong tố tụng hình sự thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội kể từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra vụ án hình sự. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra bao gồm các hoạt động: khởi tố, thay đổi, hủy bỏ hoặc phê chuẩn khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế; yêu cầu xác minh, điều tra; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra ; quyết định việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án...
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố vào Chương X của Bộ luật về “Những quy định chung về điều tra vụ án hình sự”, đồng thời Điều 172 của Bộ luật cũng quy định thời hạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra, nhưng học viên nhận định quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc giai đoạn điều tra bởi lẽ, khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm xác định có hay không hành vi phạm tội để từ đó có căn cứ khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra thu thập trong giai đoạn này (Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, Kết luận giám định, định giá...) rất quan trọng để chứng minh tội phạm, là tiền đề, cơ sở để cơ quan điều tra tiến hành thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để củng cố hồ sơ, mở rộng điều tra. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân cũng tiến hành một số hoạt động tương tự trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, như: phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ, áp dụng, thay thế biện pháp ngăn chặn, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc khởi tố vụ án hình sự ....