Quyền công dân và trách nhiệm của cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Quyền cơ bản của công dân trong vụ án hình sự là gì? Nội dung cơ bản của quyền con người trong vụ án hình sự. Trách nhiệm của cơ quan điều tra trong vụ án hình sự.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm nòng cốt. Cơ quan điều tra là một trong những cơ quan quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bên cạnh thực hiện công việc được Nhà nước giao phó thì cũng cần lưu ý đảm bảo quyền công dân của những người có liên quan trong vụ án.
Mục lục bài viết
1. Quyền cơ bản của công dân trong vụ án hình sự là gì?
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) quan điểm đổi mới của Đảng đã làm thay đổi nhận thức về vấn đề thực hiện và bảo vệ quyền con người. Quyền con người thu hút được sự quan tâm rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội, đồng thời đã được hiện thực hóa thành các quy phạm pháp lý cụ thể. Trong đó, quyền con người trong tố tụng hình sự quy định khá rõ nét.
Mỗi giai đoạn tố tụng do một chủ thể thực hiện, nhưng các chủ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa phối hợp vừa kiểm soát lẫn nhau để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Hoạt động này trước hết sẽ bảo vệ quyền lợi cho người bị hại trước sự xâm phạm của tội phạm. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong hoạt động này, tính quyền lực hay sức mạnh cưỡng chế của nhà nước tạo nên sự bất bình đẳng cho các bên khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dẫn đến quyền con người trong tố tụng hình sự lại là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền sống; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện…. Do đó, hoạt động tố tụng hình sự trong mọi quốc gia phải thận trọng và chú trọng việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm một cách bất hợp pháp.
Pháp luật quốc tế về quyền con người có những chuẩn mực tối thiểu đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong tố tụng hình sự được áp dụng trong phạm vi toàn cầu, không kể hệ thống chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về quyền con người trong tố tụng hình sự được quy định trong nhiều văn kiện, có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985… Các quy định trong các văn kiện trên tạo thành hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về quy tắc ứng xử của cơ quan và nhân viên thực thi pháp luật cũng như đảm bảo cho bị can, bị cáo có các quyền pháp lý nhất định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, giảm thiểu các nguy cơ xâm hại bất hợp pháp.
2. Quyền công dân trong vụ án hình sự tiếng Anh là gì?
Quyền công dân trong vụ án hình sự được hiểu trong tiếng Anh được hiểu là Civil rights in criminal cases.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của một số Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia vào năm 1982); CRC (tham gia vào 1990); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại năm 1968 (tham gia 1983).. Luôn nỗ lực thực hiện các cam kết của mình đồng thời chủ động hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế, đề cao quyền con người của cá nhân và trách nhiệm của các quan chức thực thi pháp luật, tôn trọng và bảo đảm thực hiện nhằm giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân khi thực thi công vụ.
3. Nội dung cơ bản của quyền con người trong vụ án hình sự
*) Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện:
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền này lần đầu tiên được quy định tại Điều 9 Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR): “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”, sau đó được Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) cụ thể hóa hơn tại Điều 9 như sau: “ Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại khoản 2, Điều 20 Hiến pháp năm 2013: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
*) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục:
Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) lần lượt ghi nhận quyền này tại Điều 5 (UDHR) và Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) vào năm 1948 và 1966 nhưng lại không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về “tra tấn”.
Việt Nam ký kết công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm của Liên Hợp Quốc (UNCAT) và được Quốc hội phê chuẩn năm 2014. Việc tham gia công ước này thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước cũng như quyết tâm duy trì văn hóa quyền con người đã được khẳng định trong
*) Quyền được xét xử nhanh chóng, không trì hoãn:
Điểm c khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) quy định: “Người bị buộc tội được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý”
Bình luận chung số 32 tại phiên họp thứ 19, 2007 của UNHRC cũng xác định tại Điều 27:
“Một khía cạnh của phiên tòa công khai là tính chất nhanh chóng. Vấn đề xét xử không chậm trễ trong tố tụng hình sự được đề cập trong khoản 3c Điều 14, theo đó sự chậm trễ trong thủ tục tố tụng không thể biện minh bởi sự phức tạp của vụ án hoặc những hành vi của các bên là trái với nguyên tắc xét xử công bằng theo đoạn 1 của Điều 14. Trong trường hợp chậm trễ này là do thiếu nguồn lực thì cần bổ sung ngân sách cho thực thi pháp luật”.
Đây là một quyền quan trọng góp phần rất lớn trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật tố tụng. Việc chậm trễ không kịp thời có thể gây ra những ảnh hưởng về mặt vật chất, tinh thần và gây ra tâm lý không tốt cho những người tham gia tố tụng.
*) Quyền được xét xử công bằng:
Trong pháp luật Việt Nam, quyền này được thể hiện bằng nhiều quy định trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự. Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đều ghi nhận quyền xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trước cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó, nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện rất rõ tại Điều 31 của
Nhìn chung trong những năm qua, hoạt động tố tụng hình sự đã có những kết quả khả quan góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người bị vi phạm, đặc biệt là những quyền lợi quan trọng và cơ bản gây ra những hậu quả nặng nề, khó khắc phục, có khi là không thể khắc phục. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự là vấn đề rất quan trọng cần được đề cao. Việc ban hành chính sách, quy định hợp lý, khả thi luôn phải đi đôi với việc đảm bảo thực hiện trên thực tế.
4. Trách nhiệm của cơ quan điều tra trong vụ án hình sự
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách có hiệu quả, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cũng như BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, nếu BLTTHS năm 2003 đặt điều luật này trong chương “Những nguyên tắc cơ bản” là chưa phù hợp vì đây là quy định về trách nhiệm của các chủ thể, không mang tính chất là một nguyên tắc cơ bản. BLTTHS năm 2015 đã sửa theo hướng đặt quy định này tại chương I “Phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự”.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, trước tiên cần đặt ra trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước hay bộ máy Nhà nước. Đấu tranh phòng chống tội phạm vừa thể hiện tính chất chuyên chính của Nhà nước, vừa thể hiện tính chất xã hội, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và mỗi công dân. Đấu tranh phòng chống tội phạm là góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, là trách nhiệm chung của cơ quan nhà nước, các cơ quan nhà nước trong phạm vi trách nhiệm của mình, phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và
Điều luật yêu cầu người đứng đầu cơ quan nhà nước – thủ trưởng cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không
Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm: phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mọi tổ chức cá nhân, là trách nhiệm của mọi chủ thể trong xã hội, là trách nhiệm của công dân.
Điều luật quy định về mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm:
Thứ nhất, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Thứ ba, điều luật quy định về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với cơ quan thanh tra, kiểm toán là các cơ quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn luật định, có điều kiện phát hiện vi phạm pháp luật và tội phạm trong các lĩnh vực được thanh tra, kiểm toán, theo đó: khi phát hiện vụ có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu, đồ vật có liên quan và kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự.
Kết luận: Trong quá trình giải quyết một số vụ án hình sự, nhận thức, đánh giá về chứng cứ, tội danh hoặc diện truy tố giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa thống nhất, dẫn đến một số quyết định và văn bản tố tụng do Cơ quan điều tra ban hành không được hoặc chậm được Viện kiểm sát phê chuẩn, ảnh hưởng tới tiến độ, kết quả điều tra, xử lý vụ án. Do vậy cần đảm bảo đúng quy định về quyền công dân trong vụ án hình sự là góp phần thực thi Hiến pháp 2013 và