Tội đe dọa giết người (Threat of murder) là gì? Tội đe dọa giết người tiếng Anh là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về tội đe dọa giết người? Dấu hiệu pháp lý của tội đe dọa giết người? Hình phạt?
Hiện nay, tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc sống cũng kéo theo sự gia tăng về mâu thuẫn giữa con người với nhau. Nếu trong một số trường hợp, các bên có thể giải quyết được những mâu thuẫn đó bằng biện pháp hòa bình, thương lượng thì cũng không ít trường hợp, mâu thuẫn giữa các bên ngày càng trở nên trầm trọng hơn, thậm chí còn dùng thủ đoạn đe dọa lẫn nhau, trong đó có đe dọa giết người. Bài viết tìm hiểu về tội đe dọa giết người và quy định của pháp luật đối với tội phạm này.
Cơ sở pháp lý:
–
Mục lục bài viết
1. Tội đe dọa giết người là gì?
Tội đe dọa giết người là hành vi nguy hiểm cho xã hội được bộ luật hình sự quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người bằng hành vi đe dọa tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.
2. Tội đe dọa giết người tiếng Anh là gì?
Tội đe dọa giết người trong tiếng Anh là “Threat of murder”.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về tội đe dọa giết người
Tội đe dọa giết người được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
“Điều 133. Tội đe dọa giết người
1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác”.
4. Dấu hiệu pháp lý của tội đe dọa giết người
4.1. Khách thể của tội phạm
Tội đe dọa giết người xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người.
4.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi đe dọa giết người, tức là hành vi đe dọa tước đoạt mạng sống của người khác trái pháp luật.
Hành vi đe dọa phải làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa sẽ được thực hiện. Việc đe dọa được hiểu phải gây ra tâm lý bất an, lo sợ cho người bị đe dọa, chứ không phải là dọa vu vơ hoặc hăm dọa không hướng tới đối tượng cụ thể. Chính vì vậy, “hành vi đe dọa giết người chỉ cấu thành tội đe dọa giết người khi hành vi đó đã làm cho người bị đe dọa thực sự lo sợ một cách có căn cứ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện”.
Ví dụ sau đây sẽ làm rõ hành vi khách quan của tội đe dọa giết người:
Khoảng 20h ngày 22-4-2009, thấy Lê Văn Ích cùng con trai là Lê Văn Quốc Tuấn uống cà phê tại quán của chị Nguyễn Thị Ánh, bà Huỳnh Thị Liên (mẹ của Tuấn) đến gọi Tuấn về và nói Ích không được rủ Tuấn đi chơi nữa để Tuấn còn học. Điều này làm Ích bực tức vì cảm thấy bị coi thường trước mặt mọi người. Sau đó, Ích đi uống rượu với bạn.
Đến khoảng 19h tối, vẫn còn tức vì bị bà Liên cấm chơi với Tuấn, Ích mang cưa cầm tay (lưỡi dài 41 cm, dùng để cưa gỗ), đến cửa nhà bà Liên, cầm cưa và hướng vào nhà nói: “Hôm nay tao sẽ cưa người mày làm 3 khúc vì mày dám làm nhục ông ở quán”. Bà Liên sợ hãi không dám ra khỏi nhà và khóa trái cửa. Chửi bới khoảng hơn một tiếng, Ích về nhà.
Khoảng gần 8h sáng hôm sau, Ích lại cầm dao phay đến nhà bà Liên, ném gạch vào nhà và thách thức: “Mày bước ra đây, ông chém chết mày ngay”. Chỉ đến khi có người đến can ngăn, Ích mới bỏ đi. Buổi chiều, khoảng 17h, Ích lại quay lại, cầm dao đứng trước cửa nhà chửi bới, hăm dọa giết bà Liên. Sau đó, bà Liên phải đến nhà họ hàng ở nhờ để tránh mặt.
Trong vụ án này, có thể thấy rõ là bị cáo Ích đã đe dọa bà Liên làm bà lo sợ có căn cứ vì hành vi của de dọa của Ích rất hung hãn làm bà Liên không dám ra khỏi nhà và sau đó phải đến nhà họ hàng xin ở nhờ. Như vậy, Ích đã phạm tội đe dọa giết người theo Điều 133 BLHS năm 2015.
Để đánh giá người bị đe dọa có phải ở trong tình trạng tâm lý như vậy hay không thì phải xem xét một cách khách quan, toàn diện các tình tiết như: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân của sự việc, các yếu tố có liên quan thuộc về người đe dọa và người bị đe dọa (sự phát triển về thể chất, tâm, sinh lý, tuổi đời, trình độ,…).
– Nếu cùng với hành vi đe dọa, người đe dọa còn có hành vi tìm kiếm, sửa dọan công cụ, phương tiện hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm để lên kế hoạch thực hiện giết người thì hành vi đó có thể cấu thành tội giết người ở trường hợp chuẩn bị phạm tội theo khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.
Ví dụ: Chị Vũ Thị Hoàng Anh (26 tuổi), Q.5, TP.HCM. Trước đó, khoảng tháng 8-2010, chị Vũ Thị Hoàng Anh cho gia đình biết việc có một người đàn ông tên Nguyễn Đăng Thành (30 tuổi), quê ở Bình Định, tạm trú tại quận Gò Vấp theo đuổi và đặt mối quan hệ tình cảm. Tuy nhiên, Hoàng Anh không có tình cảm với Nguyễn Đăng Thành nên đã nhiều lần từ chối.
Không bỏ cuộc, Nguyễn Đăng Thành tiếp tục theo đuổi bằng cách thường xuyên gọi điện thoại đến nhà, cơ quan nơi Hoàng Anh làm việc để quấy rầy. Nguyễn Đăng Thành cũng đã không ít lần gây sự với bạn bè, đồng nghiệp của Hoàng Anh. Chỉ cần thấy Hoàng Anh đi cùng hay ngồi chơi với người con trai nào, lập tức Nguyễn Đăng Thành xuất hiện và gây sự.
Sau đó, Nguyễn Đăng Thành gửi đến cho Hoàng Anh tin nhắn: “Hoặc Hoàng Anh phải chấp nhận lấy Thành làm chồng, hoặc Thành sẽ giết Hoàng Anh và giết cả những thanh niên nào muốn đến tìm hiểu Hoàng Anh”. Chưa chịu dừng lại ở đó, tên Thành đã dọa chị Hoàng Anh rằng nếu báo công an thì sẽ “giết cả nhà”.
Quá lo lắng cho gia đình, chị Hoàng Anh không dám báo công an. Tuy nhiên, chỉ sau thời gian ngắn, tên Thành đã cầm dao bầu đâm nạn nhân 5 nhát làm nạn nhân tử vong.
Trong vụ án này, tên Thành mới đầu đã có hành vi đe dọa giết nạn nhân, nhưng sau đó, tên này đã có hành vi tước đoạt tính mạng người khác trái pháp luật, gây nên cái chết thương tâm cho nạn nhân. Do đó, hành vi của tên Thành phải xác định là phạm tội giết người.
– Nếu hành vi đe dọa giết người để chống người thi hành công vụ thì hành vi đó có thể cấu thành tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật hình sự tại Điều 330 mà không cấu thành tội đe dọa giết người theo Điều 133.
– Nếu hành vi đe dọa giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể cấu thành tội cướp tài sản theo điều 168 BLHS hoặc tội cưỡng đoạt tài sản theo điều 170 BLHS.
– Nếu việc đe dọa giết người chỉ là lời đe dọa vu vơ, bất kỳ người nào cũng biết người đe dọa sẽ không thực hiện lời đe dọa ấy trên thực tế thì hành vi đe dọa đó không cấu thành tội phạm.
4.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trước hậu quả của hành vi là làm cho người bị đe dọa có căn cứ lo sợ rằng việc đe dọa giết người sẽ được thực hiện nhưng vẫn thực hiện hành vi đe dọa.
4.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
5. Hình phạt
Khung hình phạt tại khoản 1:
Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Khung hình phạt tại khoản 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
– Đối với 02 người trở lên: là phạm tội 1 lần đối với 2 người trở lên hoặc phạm tội 2 lần trở lên đối với 2 người trở lên và những lần đó chưa bị xử lý hình sự, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, được đưa ra truy tố, xét xử cùng một lúc.
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là người phạm tội đã dựa vào chức vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội.
– Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
– Đối với người dưới 16 tuổi: là phạm tội đối với người chưa đủ 16 tuổi. Ở tình tiết định khung tăng nặng này, người phạm tội có thể biết hoặc không biết nạn nhân là người dưới 16 tuổi.
– Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác: Là trường hợp phạm tội đe dọa giết người để người đó không báo tin, tố cáo làm nhân chứng hoặc không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm khác mà người phạm tội đã thực hiện.
Ví dụ: Vào hồi 23h05 ngày 5-4-2018, tại trước cửa số nhà 9 phố Đông Thiên, phường Vĩnh Hưng, Quận Hoàng Mai, Hà Nội, Nghiêm Xuân Tuấn sử dụng dao dài khoảng 30cm có đầu nhọn chặn đầu xe máy nhãn hiệu Honda vision màu sơn xanh, BKS: 19 K1-26873.
Tuấn quát tháo và cầm dao khua khoắng trước mặt anh Phạm Tuấn Anh. Khi thấy anh Phạm Tuấn Anh sợ chạy, bỏ lại xe máy thì Tuấn lấy xe máy của anh Phạm Tuấn Anh phóng đi. Khi bị anh Phạm Tuấn Anh cùng quần chúng nhân dân đuổi bắt thì Tuấn đã dùng dao đe dọa đâm người đuổi bắt.
Đến 23h30 phút ngày 5-4-2018, đồng chí Phạm Văn Chung và đồng chí Phạm Văn Đăng là Công an Phường Vĩnh Hưng nhận được tin báo và đến tiếp cận hiện trường. Lúc này, Tuấn dùng tay trái túm vào cổ áo, tay phải dùng dao dí vào cổ đồng chí Đăng dọa nếu ai vào sẽ đâm chết.
Sau đó, theo yêu cầu Tấn, đồng chí Chung đã điều khiển xe máy chở Tuấn về trụ sở phường, Tuấn tiếp tục túm cổ áo và dùng dao dí vào cổ đồng chí Phạm Văn Chung đe dọa đâm chết đồng chí Phạm Văn Chung.
Như vậy, hành vi của Nghiêm Xuân Tấn đã cấu thành Tội đe dọa giết người được quy định tại khoản 3 Điều 133 với khung tăng nặng là “Đối với 2 người trở lên” và “Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”