Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là gì? Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong Tiếng anh là gì? Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt?
Nếu như xem xét quyết định hình phạt dưới góc độ luật tố tụng hình sự, quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án trong giai đoạn xét xử thì dưới góc độ luật hình sự, quyết định hình phạt được quy định một cách cụ thể về nội dung, làm căn cứ cho hoạt động của Tòa án. Một trong những trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt là quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với bị cáo.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là gì?
- 2 2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong Tiếng anh là gì?
- 3 3. Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt?
- 3.1 3.1. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu giai đoạn trước pháp điển hóa lần thứ nhất.
- 3.2 3.2. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 1985.
- 3.3 3.3. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 1999.
- 3.4 3.4. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 2015.
1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là gì?
Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ để quyết định hình phạt đối với người phạm tội là:
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
– Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ trên, Tòa án còn căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là việc tòa án lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định đối với tội danh cụ thể, áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
2. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong Tiếng anh là gì?
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong Tiếng anh là “Decision on a sentence below lower limit of the sentence bracket”.
3. Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt?
3.1. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu giai đoạn trước pháp điển hóa lần thứ nhất.
Ở giai đoạn này, văn bản đầu tiên phải kể đến là Thông tư số 2140-TT-VHH_HS năm 1955 về việc áp dụng luật lệ, khi trả lời câu hỏi đối với các tội định trong Thông tư 442, về tội hối lộ định trong Sắc lệnh 223-SL năm 1946 có thể dưới mức tối thiểu hoặc cho hưởng án treo được không, Thông tư 2140 nêu rõ: “Tùy trường hợp, có thể xuống dưới mức tối thiểu hoặc cho hưởng án treo được, nhưng nên áp dụng dè dặt điều khoan hồng này. Có xuống dưới mức tối thiểu thì cũng không nên xuống dưới 15 ngày tù”. Quy định của thông tư chưa thực sự rõ ràng nên việc áp dụng còn tùy nghi, các trường hợp áp dụng không được quy định cụ thể mà rất chung chung “tùy trường hợp”, mặc dù cho phép quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của luật nhưng theo hướng khuyến cáo chỉ áp dụng thật hạn chế “nên áp dụng dè dặt điều Khoản này”
Nhìn chung, những văn bản giai đoạn này chỉ đề cấp đến việc tòa án có quyền xử dưới khung hình phạt áp dụng nhưng căn cứ chung chung và không có giới hạn của việc giảm mức hình phạt quyết định. Tất cả việc áp dụng trong trường hợp này đều xuất phát từ nhận thức và kinh nghiệm của tòa án để thực hiện.
3.2. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 1985 .
Quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
Quy định này được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19 tháng 4 năm 1989 của Hội đồng thầm phán TANDTC hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của BLHS. Theo đó, tại mục B phần II của Nghi quyết có nêu rõ điều kiện được áp dụng quy định này là người phạm tội có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất là một tình tiết đã được quy định tại Khoản 1 điều 38 BLHS. Đặc biệt, đối với bị cáo chưa đến tuổi thành niên đã là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, cho nên đối với bị cáo chưa thành niên thì chi cần có một tình tiết giảm nhẹ đã được quy định ở Khoản 1 điều 38 BLHS là có thế áp dụng Khoản 3 điều 38 BLHS.
Tùy theo số lượng và tính chất của các tình tiết giảm nhẹ, đồng thời tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà quyết định giảm nhẹ trong khung hình phạt hay áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đó, hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Nghị quyết cũng chỉ rõ, Tòa án chỉ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo mà nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo cũng chỉ bị phạt ở mức thấp của khung hình phạt, do đó, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có the cho họ được hưởng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đó hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn.
3.3. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 1999 .
Quy định về việc giảm hình phạt dưới mức tối thiểu được quy định thành điều luật riêng với tên gọi riêng trong BLHS năm 1999. Theo đó, Điều 47 BLHS năm 1999 quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật với nội dung: Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chi có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc 46 loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”. Nhìn chung, Điều 47 BLHS năm 1999 về cơ bản đã khắc phục được những hạn chế của Điều 38 BLHS năm 1985 về điều kiện áp dụng cũng như phạm vi mà Tòa án có thể áp dụng để giảm hình phạt dưới mức tối thiểu.
3.4. Quy định về trường hợp giảm hình phạt dưới mức tối thiểu trong Bộ luật hình sự năm 2015 .
Trong Bộ luật hình sự năm 2015, quy định về việc giảm hình phạt dưới mức tối thiếu cũng được quy định thành điều luật riêng với tên gọi “Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng” và có nhiều nội dung thay đôi so với quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hai trường hợp cơ bản có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Cụ thể:
Trường hợp thứ nhất, nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Nếu điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyên sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”. Về cơ bản, trường hợp này giống trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999.
Các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51:
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu;
– Người phạm tội là phụ nữ có thai;
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội tự thú;
– Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Trường hợp thứ hai, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Tương tự trường hợp thứ nhất, nếu điều luật chi có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án (Khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015).