Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại là gì? Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại? Quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại?
Hệ thống hình phạt được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong đó có hình phạt đối với người phạm tội và hình phạt đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. Hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự là: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, và các hình phạt bổ sung khác. Vậy đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại là gì? Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại được quy định như thế nào trong Bộ luật hình sự?
Căn cứ pháp lý:
Mục lục bài viết
1. Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại là gì?
– Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại là một trong các hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự
– Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại được quy định tại Điều 78 Bộ luật hình sự 2015 như sau: Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế; Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại:
Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78 BLHS)
” Điều 78. Đình chỉ hoạt động có thời hạn
1. Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
2. Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm”
– Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình phạt chính, buộc pháp nhân thương mại phải tạm dừng hoạt động trong một hoặc một số lĩnh vực.
– Điều kiện để áp dụng hình phạt này là: Pháp nhân thương mại đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và pháp nhân thương mại có đủ điều kiện thực tế để có thể loại trừ khả năng gây thiệt hại. Thời hạn đình chỉ hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội là từ 06 tháng đến 03 năm.
– Để tránh cho pháp nhân thương mại có nguy cơ bị phá sản, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị đình chỉ hoạt động có thời hạn trong một hoặc một số lĩnh vực thỏa mãn các điều kiện nêu trên. Khi hết thời hạn hoặc ngoài các lĩnh vực bị cấm, pháp nhân vẫn có thể tiếp tục hoạt động kinh doanh.
3. Quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại:
Căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại
– Điều 83 BLHS quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại như sau: “Khi quyết định hình phạt,
– Theo quy định này, các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại bao gồm:
+ Các quy định của BLHS;
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
+ Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại.
Các quy định của Bộ luật hình sự
Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn biện pháp xử lí trong đó có lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại. Đó là những quy định sau:
Các quy định trong Phần chung BLHS:
+ Quy định về cơ sở của TNHS (khoản 2 Điều 2 BLHS)
+ Quy định về nguyên tắc xử lí đối với pháp nhân thương mại phạm tội (khoản 2 Điều 3 BLHS);
+ Quy định về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 33; Điều 77 đến Điều 81 BLHS);
+ Quy định về biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 82 BLHS);
+ Quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 83 BLHS);
+ Quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại (Điều 84 và Điều 85 BLHS);
+ Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp pháp
nhân thương mại phạm nhiều tội (Điều 86 BLHS);
+ Quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 87 BLHS);
– Các quy định trong Phần các tội phạm BLHS: Đó là các quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung được áp dụng cho pháp nhân thương mại. Các khung hình phạt này được quy định cho các tội phạm thuộc phạm vi pháp nhân thương mại phải chịu TNHS (các tội được liệt kê tại. Điều 76 BLHS).
– Khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại, tòa án cũng phải căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi phạm tội (của tội phạm thuộc phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại và pháp nhân thương mại có đủ điều kiện chịu TNHS về tội phạm đó).
– Vì quyết định hình phạt là quyết định trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên quyết định hình phạt chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mức độ đó phụ thuộc trước hết vào những yếu tố như tính chất của hành vi phạm tội; tính chất và mức độ của hậu quả; mức độ lỗi; hoàn cảnh phạm tội…”
Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại
– Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, tòa án còn phải căn cứ vào việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại trong cả quá trình từ trước đến khi bị coi là chủ thể phải chịu TNHS. Xem xét việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại chủ yếu nhằm xác định khả năng đạt được mục đích của hình phạt cũng như của các biện pháp xử lí khác đối với pháp nhân thương mại.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 84 và Điều 85 BLHS. Các tình tiết đó có thể được phân loại thành hai nhóm khác nhau:
– Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (làm giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể);
– Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục của pháp nhân thương mại. T THÚC KHÁCH CÓ
Về tính chất pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại, cần chú ý:
– Các tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với pháp nhân thương mại bao gồm những tình tiết được quy định tại Điều 84 BLHS và những tình tiết khác được tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ TNHS cần được cân nhắc khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại. – Các tình tiết tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại chỉ có thể là những tình tiết đã được qui định tại Điều 85.
– Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS được nêu trên đây sẽ không được coi là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với tội phạm mà CTTP của nó đã sử dụng tình tiết này làm dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt.
Hầu hết các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS được áp dụng cho pháp nhân thương mại mới chỉ được xác định khái quát mà chưa được mô tả cụ thể. Riêng tình tiết tăng nặng tái phạm và tái phạm nguy hiểm được quy định cụ thể tại Điều 53 BLHS giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại có thể được giải thích như sau
– Thứ nhất, về các tình tiết giảm nhẹ TNHS
+ Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a khoản 1 Điều 84 BLHS): Đây là trường hợp tội phạm đã được thực hiện, nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng pháp nhân thương mại đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc hạn chế được tác hại của tội phạm. Mức độ giảm nhẹ TNHS do có tình tiết này không những phụ thuộc vào thái độ chủ quan của pháp nhân thương mại đối với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại mà còn phụ thuộc vào thực tế tác hại được ngăn chặn.
+ Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 84 BLHS): Đây là trường hợp phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại nhưng pháp nhân thương mại đã tự nguyện tìm cách hạn chế hậu quả của tội phạm như a chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại sửa thần Tài sản, thể chất, tinh thân hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm. Mức độ giảm nhẹ TNHS rong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của pháp nhân thương mại cũng như vào mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.
+ Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (điểm d khoản 1 Điều 84 BLHS): Đây là trường hợp pháp nhân thương mại đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho các cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS. Mức độ giảm nhẹ TNHS do có tình tiết này phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của việc tích cực hợp tác với các cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.
Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội (điểm đ khoản I Điều 84 BLHS)
Thứ hai, về các tình tiết tăng nặng TNHS
– Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tôi (điểm a khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp có ít nhất hai pháp nhân thương mại đã câu kết với nhau để tội phạm được thực hiện bằng hình thức đồng phạm thông qua người phạm tội. Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội làm tăng đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm do làm tăng khả năng thực hiện tội phạm, quy mô của tội phạm cũng như mức độ hậu quả… Mức độ tăng nặng TNHS do có tình tiết này chủ yếu phụ thuộc vào mức độ câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội.
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội (điểm đ khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp pháp nhân thương mại thông qua người phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn, phức tạp của xã hội để dễ dàng thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội có tình tiết này có tính chất nghiêm trọng hơn trường hợp phạm tội bình thường vì nó không chỉ cản trở sự khắc phục khó khăn mà còn làm sung thêm những khó khăn đang có của xã hội; tăng – Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội (điểm e khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp mà thủ đoạn phạm tội được sử dụng rất phức tạp, kín đáo, khó nhận biết. Mức độ tăng nặng TNHS của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ tinh vi của thủ đoạn phạm tội.
– Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng (điểm b khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp tăng nặng mức độ lỗi vì có những biểu hiện thể hiện pháp nhân thương mại quyết tâm thực hiện tội phạm qua việc cố gắng khắc phục mọi trở ngại để thực hiện bằng được tội phạm. chung
– Phạm tội 02 lần trở lên (điểm c khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp pháp nhân thương mại được xác định phải chịu TNHS về tội phạm được thực hiện từ 2 lần trở lên.
– Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (điểm d khoản 1 Điều BLHS).
– Dùng thủ đoạn tinh vi nhằm trốn tránh, che dấu tội phạm (điểm e khoản 1 Điều 85 BLHS): Đây là trường hợp pháp nhân thương mại sử dụng thủ đoạn hết sức phức tạp, kín đáo, khó nhân biết để che giấu tội phạm, trốn tránh trách nhiệm.