Quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động? Vi phạm quy định phân biệt đối xử trong lao động bị xử lý như thế nào?
Hiện nay chúng ta có thể thấy quan hệ lao động rất phổ biến và đa dạng, Người sử dụng lao động và người lao động khi xác lập với nhau quan hệ lao động phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật và lưu ý không vi phạm những điều cấm mà pháp luật đề ra. Vậy cụ thể pháp luật quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động như thế nào, nếu vi phạm những điều cấm đó thì sẽ bị xử phạt ra sao? Đây là những câu hỏi thường gặp với vấn đề này. Dưới đây là thông tin chi tiết về nội dung này.
Cơ sở pháp lý:
Nghị định Số: 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
1. Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động
Căn cứ theo quy định tại điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động Luật lao động 2019 quy định cụ thể:
1. Phân biệt đối xử trong lao động.
2. Ngược đãi người lao động, cưỡng bức lao động.
3. Quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
4. Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật.
5. Sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
6. Lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo gian dối hoặc thủ đoạn khác để lừa gạt người lao động hoặc để tuyển dụng người lao động với mục đích mua bán người, bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc lợi dụng dịch vụ việc làm, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để thực hiện hành vi trái pháp luật.
7. Sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật.
Như vậy pháp luật có đề ra những quy định về các hành vi bị cấm trong lĩnh vực lao động theo đó, tại khoản 1 điều 8 như trên có nêu về phân biệt đối xử trong lao động có thể hiểu hành vi này là hành vi phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sở tình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bình đẳng về cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp. Trên thực tế có thể dễ dàng thấy được những biểu hiện của sự phân biệt đối xử đôi khi không rõ ràng, dẫn đến việc người sử dụng lao động cũng không nắm rõ để xác định liệu có hay không một sự phân biệt đối xử khi ban hành một quy tắc hoặc một quyết định trong một trường hợp cụ thể, phân biệt đối xử được thực hiện sẽ dẫn đến sự ảnh hưởng lợi ích của người lao động. Do đó, các tranh chấp xảy ra liên quan đến sự phân biệt đối xử thường biểu hiện thông qua các tranh chấp lao động phổ biến thế nên việc pháp luật đề ra quy định như trên là hoàn toàn hợp lý.
Ngoài ra về hành vi ngược đãi người lao động, cưỡng bức lao động có thể hiểu là người sử dụng lao động thực hiện các hành vi, thủ đoạn trên với mục đích ép người lao động thực hiện những việc mà họ không muốn làm, tức trái với ý chí tự nguyện của người lao động. Mà theo quy đinh thì tự nguyện lại là một trong những nguyên tắc được đề cao hàng đầu trong pháp luật về lao động vậy nên điều này đi trái ngược với quy định của Luật nên sẽ thuộc vào điều cấm
Đối với những trường hợp có hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc đây cũng là vấn nạn của xã hội xâm phạm tới quyền của cá nhân khác có thể hiểu đây là một hình thức phân biệt đối xử liên quan đến giới tính, gây ảnh hưởng xấu tiêu cực tới môi trường công sở, phá vỡ sự bình đẳng giữa người lao động nam và lao động nữ. Quấy dối tình dục nơi làm việc sẽ dẫn đến những tác động xấu về tâm lý, thậm chí gây lo lắng, căng thẳng và tổn thương sâu sắc về cả thể xác lẫn tinh thần cho người bị hại. Hậu quả là làm cho môi trường công sở trở nên thiếu sự an toàn, hiệu suất cũng như năng suất làm việc bị giảm sút.
Những hành vi bóc lột sức lao động có thể dễ nhận thấy nhất hiện nay đó là đối với các em trong độ tuổi vụ thành niên (15 Tuổi) người sử dụng lao động dùng các thủ đoạn ngày càng tinh vi, hiện nay nhiều đơn vị tuyển dụng lao động sẵn sang cho tạm ứng trước một phần tiền lương, đưa ảnh chụp một vài em đi làm trước ở những nơi tiện nghi để làm minh chứng. Những kẻ lừa lao động đã tạo được một phản ứng dây chuyền, đưa hàng chục lao động trẻ em từ vùng cao, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đi làm việc. Từ đó tiến hành bóc lột sức lao động của các em và dụ dỗ lôi kéo vi phạm pháp luật.
Đối với những hành vi sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật cũng là một hành vi thuộc nội dung cấm do pháp luật lao động quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Quy định này xuất phát từ các nghiên cứu khoa học xác định độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi là khoảng thời gian để con người hoàn thiện sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần. Thế nên, Bộ luật Lao động hiện hành có các quy định riêng bảo vệ người lao động chưa thành niên khi tham gia quan hệ lao động
2. Vi phạm quy định phân biệt đối xử trong lao động bị xử lý như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 điều 7 nghị định Số: 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định cụ thể:
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi phân biệt đối xử về giới tính, độ tuổi, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật.
Như vậy, theo quy định tại Điều 26 của Hiến pháp, công dân nam và nữ có quyền bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhà nước có chính sách để đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động. Căn cứ theo quy định tại điều 16 của Hiến pháp có nêu rõ “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, Lao động nam và nữ phải được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc”.
Người lao động có quyền được làm việc và họ có quyền được tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp mong muốn. Người lao động cũng có thể tự do lựa chọn việc đào tạo nghề mà họ muốn tham gia và có quyền nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của họ. Pháp luật đề ra những quy định nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử trên các cơ sở giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật hay là tham gia hoạt động công đoàn tại nơi làm việc.
Theo như quy định trên nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định đối với hành vi phân biệt đối xử trong lao động với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và có thể sẽ phải chịu những biện pháp xử phạt bổ sung khác theo quy định.
Kết luận: trên bài viết này chúng tôi đã nêu ra về những điều cấm không được thực hiện trong pháp luật lao động. Theo đó cần nâng cao ý thức để không vi phạm pháp luật lao động. Có thể thấy hiện nay chưa có quy định pháp luật cụ thể nào quy định về trách nhiệm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật lao động cho người lao động trong doanh nghiệp.
Theo đó căn cứ dựa trên những quy định của pháp luật về chính sách của Nhà nước về lao động (Điều 4,
Trong quan hệ lao động mỗi chủ thể có trách nhiệm riêng của mình trong mối quan hệ với trách nhiệm của các chủ thể khác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó thì trách nhiệm này đặt nặng lên vai của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức đại diện cho người lao động hơn so với người lao động, bởi người lao động vẫn luôn là yếu thế để có thể tự nâng cao ý thức, nhận thức và bảo đảm các điều khác vật chất, tình thần khác cho bản thân người lao động được thực hiện tốt nhất.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động” và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.