Phòng vệ chính đáng được hiểu chung là việc một người dùng vũ lực nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình hoặc của người khác, bảo vệ tài sản hoặc một lợi ích khác trước một sự xâm hại hoặc đe dọa xâm hại.
Ở phương Tây, bao gồm các quốc gia Châu Âu và Bắc Mỹ, có hai thệ thống pháp luật chính là hệ thống pháp luật Dân luật (Luật La Mã) và Thông luật (Luật án lệ). Trong đó chủ yếu các quốc gia đều sử dụng Dân luật, một số ít quốc gia sử dụng Thông luật, điển hình gồm có Canada, Hoa Kỳ và Vương Quốc Anh. Do đó, nếu so sánh với pháp luật theo hệ thống pháp luật của Châu Âu lục địa, pháp luật Canada nói chung và pháp luật hình sự Canada nói riêng có nhiều điểm khác biệt. Đối với chế định phòng vệ chính đáng cũng vậy, cách tiếp cận cũng như việc áp dụng thực tế về phòng vệ chính đáng trong pháp luật Canada có nhiều điểm giống nhưng cũng có nhiều điểm rất khác đáng để học hỏi khi so sánh với pháp luật Việt Nam (cũng áp dụng hệ thống pháp luật Dân luật).
Phòng vệ chính đáng trên thế giới đều được hiểu chung là việc một người dùng vũ lực nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình hoặc của người khác, bảo vệ tài sản hoặc một lợi ích khác trước một sự xâm hại hoặc đe dọa xâm hại. Hành vi dùng vũ lực trong trường hợp phòng vệ chính đáng không bị coi là tội phạm hoặc được loại trừ trách nhiệm hình sự. Với cách hiểu như vậy, luật hình sự từ trước đến nay quy định hai trường hợp là phòng vệ chính đáng, bao gồm phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe và phòng vệ để bảo vệ tài sản (defence of person and defence of property).
Mặc dù vậy, nghiên cứu pháp luật hình sự Canada đã cho thấy một sự khác biệt đáng kể. Luật hình sự Canada cho rằng hành vi dùng vũ lực để giúp người thi hành công vụ cũng được xem là phòng vệ chính đáng. Do đó, phòng vệ chính đáng theo pháp luật Canada sẽ có ba hành vi, đó là: (1) phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe; (2) phòng vệ để bảo vệ tài sản; và (3) phòng vệ trong khi giúp người thi hành công vụ.
Hành vi phòng vệ chính đáng ở Canada cũng như các quốc gia khác trên thế giới đều phải là một hành vi chống trả một cách “hợp lý” với hành vi vi phạm pháp luật của người khác. Pháp luật Canada đưa ra một “hệ thống tiêu chuẩn” để kiểm tra tính “hợp lý” của hành vi chống trả. Để tính hợp lý được thể hiện đầy đủ trong hành vi phòng vệ chính đáng, cần phải chứng minh được khi đó người phòng vệ đang rơi vào tình trạng nguy hiểm hoặc sự nguy hiểm đang đe dọa diễn ra ngay tức khắc. Thậm chí, người phòng vệ đã cố gắng tìm hết cách để “rút lui” (retreat) trước khi chống trả lại hành vi phạm tội, người phòng vệ còn phải thuyết phục tòa án ở hai vấn đề (mang tính chủ quan): (1) bị cáo có cơ sở hợp lý tin rằng trong tình huống đó, nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe sẽ diễn ra tức khắc; (2) sự chống trả đối với nguồn nguy hiểm đó là hợp lý, không phải là hành vi vượt quá. Việc chứng minh như vậy thật sự không dễ, bởi việc xác định của người phòng vệ là một chuyện, việc chứng minh được điều đó để thuyết phục thẩm phán lại càng khó hơn, vì mỗi người lại nhận thức khác nhau về cùng một hành vi, thậm chí các thẩm phán cũng có những quan điểm khác nhau. Do đó, cần thiết phải có một chuẩn mực chung quy định về tính hợp lý của hành vi phòng vệ. Các nhà khoa học luật hình sự Canada đã xây dựng một khái niệm gọi là “người hợp lý (reasonable man) để đáp ứng nhu cầu này. “Người hợp lý” là người mà khi thực hiện hành vi chống trả trong những trường hợp cụ thể được cho là hợp lý, bất cứ ai trong trường hợp đó thực hiện hành
vi chống trả cũng đều được coi là hợp lý và ngược lại.
Tiêu chuẩn kiểm tra tính hợp lý đối với phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Canada dựa trên 4 cơ sở, cụ thể như sau:
– Việc sử dụng vũ lực để chống trả có thực sự cần thiết không?
Để xác định cơ sở này, Ted Truscott cho rằng chúng ta có thể trả lời một số câu hỏi phụ: Anh đã cố gắng xin lỗi khi còn thời gian? Anh đã cố gắng bỏ chạy khi có thể? Anh đã làm mọi cách để tránh xảy ra dùng vũ lực?
– Vũ lực được dùng có hợp lý nhằm ngăn chặn nguồn tấn công?
Anh có thể dùng vũ lực một cách ngang bằng với hành vi tấn công hoặc cao hơn một chút nhưng không bị xem là quá đáng. Chẳng hạn, khi anh bị đấm, khi đó
anh tin rằng, việc chìa vũ khí ra để kẻ tấn công sợ, thì anh có thể làm, và anh cũng có thể bắt đầu chống trả miễn sao nhằm ngăn chặn sự tấn công đó.
– Thương tích gây ra cho kẻ tấn công có thích đáng (appropriate) để ngăn chặn sự tấn công?
– Anh có cố ý trả thù kẻ tấn công khi hành vi tấn công đã chấm dứt?
Hành vi dùng vũ lực sau khi hành vi tấn công đã chấm dứt không được xem là hành vi phòng vệ.
Chế định phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự Canada đã được sửa đổi, bổ sung vào lần sửa đổi ngày 11/03/2013, đã rút gọn nhiều nội dung so với các quy định cũ. Canada theo hình thức hệ thống pháp luật án lệ, là hệ thống pháp luật phụ thuộc nhiều vào các án lệ chứ không phụ thuộc nhiều vào các văn bản quy phạm pháp luật, do đó Luật hình sự của Canada sửa đổi rất nhiều lần, mỗi lần lại sửa đổi một phần nhỏ. Đến lần sửa đổi ngày 11/03/2013, chế định phòng vệ chính đáng được sửa đổi, thay thế cho những quy định của lần sửa đổi ngày 01/01/2003. Những quy định mới là những thay đổi mang tính chất rút gọn, khiến những quy định về phòng vệ chính đáng không còn dài dòng, trùng lặp. Tuy nhiên, những án lệ đã được công bố áp dụng đối với cả những quy định cũ và quy định mới, do đó, trong phần phân tích này tác giả sẽ sử dụng cả các quy định từ lần sửa đổi năm 2003 và lần sửa đổi năm 2013 của BLHS Canada, sau đây gọi tắt là BLHS Canada năm 2003 và BLHS Canada năm 2013.
Các trường hợp phòng vệ chính đáng trong pháp luật hình sự Canada được quy định tại Tiết 27, Tiết 34 đến Tiết 42 BLHS Canada năm 2003, sau này là Tiết 25, Tiết 34, 35 BLHS Canada năm 2013, bao gồm đầy đủ các trường hợp là Phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình hoặc của người khác; Phòng vệ để bảo vệ tài sản và Giúp đỡ người thi hành công vụ [34], [69]. Các ví dụ dưới đây đều được lấy trong các Án lệ được áp dụng rộng rãi tại Canada.
Mục lục bài viết
1. Phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình hoặc của người khác (defence of self and others):
Xem xét vấn đề này trên cơ sở các quy định và án lệ của BLHS Canada năm 2003, có thể xác định các nội dung chính và một số vấn đề phát sinh như sau:
1.1. Phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình
a. Phòng vệ đối với hành vi tấn công vô cớ
Tiết 34 BLHS Canada 2003 quy định phòng vệ trong trường hợp chống trả một hành vi tấn công vô cớ (unprovoked assault). Tiết này quy định cụ thể như sau:
(1) Người nào bị tấn công trái pháp luật một cách vô cớ thì có quyền dùng vũ lực để đẩy lùi sự tấn công đó nếu việc dùng vũ lực không cố ý gây ra cái chết hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công và hành vi dùng vũ lực là cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình. (2)Người nào bị tấn công một cách trái pháp luật và đã gây ra cái chết hoặc gây thương tích nặng trong việc đẩy lùi hành vi tấn công sẽ được xem là hợp pháp nếu: (a)anh ta thực hiện hành vi đó với ý thức rằng hành vi tấn công sẽ giết chết hoặc gây thương tích nặng cho anh ta nếu không được ngăn chặn; và (b)anh ta có đủ cơ sở tin rằng không thể còn cách nào khác ngoài hành vi đó nhằm bảo vệ mình khỏi bị giết hoặc bị gây thương tích nặng.
Một người có thể sử dụng vũ lực khi vô cớ bị tấn công trái pháp luật và hành vị vũ lực đó không quá mức cần thiết một cách rõ ràng và không có ý gây ra cái chết hoặc bị thương nặng cho người tấn công.
Tuy nhiên, điều luật cũng đã đưa ra trường hợp người tấn công bị chết do hành vi chống trả, nhưng hành vi chống trả được xem là cần thiết và hậu quả chết người không phải do anh ta cố ý thì vẫn được xem là phòng vệ chính đáng.
Có thể tìm thấy nội dung này khi Tòa án xét xử trường hợp của Setrum (vụ án của R đối với Setrum, 1975). Tháng 01 năm 1975, tại Cronach, Sask, Canada, ông Larry Setrum đang uống rượu cùng mấy người bạn trong nhà của Harold White. Setrum cãi cọ với Wesley Petreman, nhưng White khuyên không nên đánh nhau trong nhà. Sau đó, Petreman rủ Setrum ra ngoài. Setrum theo ra dù không biết Petremạn muốn mình ra làm gì. Setrum kể rằng khi đó Petreman bắt đầu chửi và đánh mình. Setrum chống trả, đánh Petreman té bên cạnh chiếc xe tải, và sau đó Setrum bỏ đi. Petreman chết do nguyên nhân của cuộc đánh nhau ấy.
Setrum bị kết tội ngộ sát (manslaughter) vì đã đồng ý đánh nhau, là hành vi có lỗi của cả 2 bên nên đó là một hành vi trái pháp luật, và không được hưởng quy chế phòng vệ chính đáng. Sau đó, tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án tối cao đã ra quyết định: “Khi không có cơ sở hợp lý để cho rằng bị cảo cố ý giết hoặc gây thương tích nặng cho người tấn công thì không áp dụng đoạn 2 mà áp dụng đoạn 1 Tiết 34, nếu vũ lực được dùng không vượt quá giới hạn cho phép ngay cả khi người tấn công chết là do hành vi chống trả của bị cáo”. Quyết định này của Tòa án tối cao đã ủng hộ quan điểm cho rằng, nếu người phòng vệ gây ra cái chết cho người tấn công, đoạn 1 Tiết 34 vẫn có thể được áp dụng, kể cả trong trường hợp hành vi tấn công không nguy hiểm chết người hoặc có thể gây ra thương tích nặng, nhưng sự chống trả đó không cố ý dẫn đến cái chết hoặc gây thương tích nặng cho người tấn công. Tuy nhiên, nếu cách thức hay phương tiện, công cụ mà người chống trả dùng rõ ràng nhằm giết hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công thì chỉ có thể áp dụng đoạn 2 Tiết 34.
Ngoài ra, đoạn 2 Tiết 34 quy định trường hợp phòng vệ chính đáng mà gây ra cái chết hoặc thương tích nặng cho người tấn công. Để được xem là phòng vệ chính đáng trong trường hợp này, người phòng vệ phải chứng minh được sự tấn công đó có khả năng giết chết hoặc ít nhất cũng gây thương tích nặng cho mình. Đồng thời, anh ta còn phải chứng minh được rằng trong trường hợp đó, việc gây ra cái chết hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công là lựa chọn duy nhất, để bảo vệ mình khỏi chết hoặc khỏi bị thương tích nặng.
Tiết 34 có thể coi là điều luật quan trọng nhất trong phòng vệ chính đáng đối với hành vi tấn công của người khác. Tuy nhiên, có thể thấy vẫn còn một số vấn đề phát sinh như sau:
– Bị cáo có nghĩa vụ “rút lui” (retreat) trước khi dùng vũ lực để chống lại hay không?
Tiết 34 không nhắc tới nghĩa vụ rút lui của người phòng vệ trước hành vi tấn công. Có thể lấy vụ án của Deegan (vụ án của R đối với Deegan) để minh họa.
Tại Alberta, người đàn ông tên Deegan cãi cọ với một người ở một căn hộ khác trong cùng chung cư. Deegan bị đánh trước nhưng anh không chống trả mà về nhà khóa cửa lại. Kẻ tấn công quyết không tha, chạy theo và tìm Deegan, suýt phá sập cửa nhà Deegan với sự giúp sức của bạn hắn. Deegan mở cửa và “trận chiến” | bắt đầu. Deegan bị đá hai cái vào đầu. Để tự vệ, Deegan dùng dao đâm kẻ tấn công chết và gây bị thương bạn của kẻ tấn công. Deegan khai rằng anh đã cảnh cáo kẻ tấn công hãy buông tha mình và khi đó anh nghĩ mình sắp bị giết. Sau vụ án này, Tòa án tối cao quy định: “bị cáo không cần “rút lui” trước khi sử dụng vũ lực, đặc biệt là khi người bị tấn công đang ở nhà của mình”.
– Có cần thiết phải định lượng một cách chính xác vũ lực được sử dụng khi chống trả?
Tiết 34 không ghi nhận nghĩa vụ phải đo lường một cách chính xác mức độ vũ lực cần thiết được sử dụng để phòng vệ, miễn sao hành vi phòng vệ bằng vũ lực được đánh giá là hợp lý. Để hướng dẫn cụ thể cho tình huống này, Tòa án tối cao đã kết luận trong vụ án của Ogal (vụ án của R đối với Ogal).
Tại một nông trại gần Warspite, Alberta, cuộc “đụng độ” diễn ra giữa ông Mahowich và ông Alex Ogal. Khi thấy cha mình bị tấn công bằng búa bởi Mahowich, con trai của Ogal đã tìm một khúc gỗ nhằm bảo vệ cha mình và bảo vệ chính mình. Anh ta đánh vào chân, tay và đầu Mahowich gây nứt hộp sọ. Anh ta bị kết án về tội hành hung người khác với mức phạt từ 200 đô la đến 6 tháng tù. Tòa án tối cao Alberta đã xét xử phúc thẩm vụ án của Ogal. Trong nhận định của mình, thẩm phán Hyndman nêu rõ: “Dĩ nhiên là không thể buộc John Ogal (con trai của Ogal) đo lường một cách chính xác mức độ vũ lực mà anh ta dùng để bảo vệ cha mình cũng như bảo vệ mình trong tình huống này”. Tòa phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và miễn tội cho John Ogal. Trong vụ án này, hành vi gây nứt hộp sọ không bị xem là không tương xứng.
– Bị cáo có thể chống trả mà không cần kiềm chế sự kích động?
Sự kích động ở đây có nghĩa là trạng thái tinh thần bị kích động rất mạnh dẫn đến khả năng mất kiềm chế mà thực hiện hành vi chống trả. Tiết 34 không quy định cụ thể về vấn đề này, nhưng xem xét trên các bản án đã xét xử ở Canada, có thể thấy người phòng vệ được phép sử dụng vũ lực thậm chí trước khi kẻ tấn công ra tay. Hầu hết các quốc gia đều cho phép chống trả với hành vi tấn công sẽ diễn ra ngay tức khắc, Canada cũng vậy, luật vẫn yêu cầu về tính diễn ra ngay tức khắc của hành vi tấn công. Tuy nhiên ở Canada còn ghi nhận trường hợp kẻ tấn công chưa thực hiện hành vi tấn công hoặc sẽ tấn công ngay tức khắc nhưng có những biểu hiện tất yếu là hành vi tấn công sẽ xảy ra ngay tức khắc. Trong trường hợp này, bị cáo không cần phải chờ đợi kẻ tấn công ra tay trước mà có thể phòng vệ trước, vì nếu để họ ra tay trước thì đôi khi sẽ không thể phòng vệ được nữa.
Tòa phúc thẩm Ontario ủng hộ nội dung giải thích này trong vụ án của Antley (vụ án của R đối với Antley, 1964). Tháng 12 năm 1963, một người đàn ông tên Gall xông vào nhà ông Antley vì Antley thiếu nợ Gall một số tiền. Bạn của Antley là Walter thấy Gall đe dọa đánh Antley và đòi nợ trong trạng thái say rượu nên Walter yêu cầu Gall rời khỏi nhà của Antley. Tuy nhiên, khi Antley vào nhà và đóng cửa lại, Gall đuổi theo và bảo rằng sẽ đánh chết Antley. Trong tình thế đó, Antley đã chụp một khúc gỗ làm hàng rào làm vũ khí phòng vệ, trong lúc xô xát, Antley đánh Gall một cái vào đầu, vài cái vào chân làm bể mắt cá chân của Gall ba chỗ. Theo báo cáo tại phiên xét xử sơ thẩm, thẩm phán Kirkpatrick nhận xét: “Không có chứng cứ chứng tỏ Antley đã kiềm chế trước khi chống trả Gall và tại sao Antley không gọi sự giúp đỡ của Walter để tránh xảy ra bạo lực”. Vì vậy, Kirkpatrick đã kết án Antley tội gây thương tích cho người khác (assault causing bodily harm).
Tuy nhiên, các thẩm phán tòa phúc thẩm Ontario đã nêu ra một số điểm để khẳng định hành vi chống trả của Antley là hợp lý:
– Gall trước hết là kẻ xâm phạm gia cư bất hợp pháp (trespasser) và phạm tội tấn công Antley khi đưa nắm đấm về phía Antley;
– Gall là người to hơn, khỏe mạnh hơn Antley, cũng là người có sức chiến đấu cao hơn.
Nhận xét báo cáo của Kirkpatrick, thẩm phán Roach viết:
Một người bị dồn vào đường cùng bởi một người khác không cần phải kiềm chế sự “điên cuồng” (ám chỉ khi tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến trạng thái gần mất khả năng kiềm chế) trong việc chống trả lại hành vi tấn công. Khi đó, phòng vệ chính đáng vẫn có thể được áp dụng. Không cần thiết anh ta phải đợi đến khi kẻ tấn công ra tay” trước. Nếu anh ta buộc phải đợi, có thể không còn kịp nữa.
Mặc dù thẩm phán McGillivray không đồng ý với nhận xét của Roạch và cho rằng quyết định của Kirkpatrick là đúng, nhưng quan điểm của thẩm phán Roach được hai thẩm phán khác đồng ý nên quyết định cuối cùng là miễn tội cho Antley.
Vì vậy, ở Canada, người phòng vệ có quyền chống trả mà không cần kiềm chế.
Thậm chí, Tiết 34 vẫn có thể được áp dụng trong trường hợp bị cáo đánh giá sai tính nguy hiểm đang đe dọa đối với mình (nhầm lẫn có sự tấn công nhưng thực tế không có). Tuy nhiên, sự ý thức rằng mình đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng phải có cơ sở hợp lý và tin rằng không còn cách nào khác để bảo vệ tính mạng ngoài việc phải gây thiệt hại cho kẻ tấn công. Sự sai lầm của bị cáo phải được xem là hợp lý (theo tiêu chuẩn kiểm tra tính hợp lý) thì mới được xem là phòng vệ chính đáng. Vụ án của Bolyantu (vụ án của R đối với Bolyantu) [9, tr. 174] là một ví dụ. Vụ án xảy ra từ chuyện cãi vã tại Detroit House Tavern, thuộc Windsor, Ont, Canada. Bolyantu bị đánh bởi một đám đông. Nhưng sau đó, Bolyantu tỉnh dậy và bắt đầu gây sự lại với đám đông đã đánh anh ta, Bolyantu bỏ chạy, đám đông đuổi theo. Bolyantu và đám đông chạy đến bên ngoài quán rượu, sau đó, Bolyantu đã đâm Martin Stimac một nhát dao vì nghĩ rằng anh ta thuộc đám đông kia, nhưng người này không nằm trong đám đông đã tấn công Bolyantu. Thẩm phán Zaley nhận xét: “vì Stimac không phải trong nhóm người đuổi theo Bolyantu nên không thể áp dụng Tiết 34 về phòng vệ chính đáng”. Vì vậy, Bolyantu đã bị kết án tội gây thương tích cho người khác trong phiên tòa sơ thẩm.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, các thẩm phán đã tìm ra một vài chi tiết hợp lý để có thể tin rằng Stimac là số người đuổi theo Bolyantu (mặc dù thực tế không phải vậy). “Anh ta có quyền tự vệ vì có cơ sở hợp lý để tin rằng Stimac là người của đám đông đuổi theo mặc dù thực tế không phải vậy”. Nhận định này dẫn Bolyantu đến một quyết định mới để có thể miễn tội cho anh. Như vậy, theo pháp luật Canada, một người có quyền phòng vệ khi có cơ sở hợp lý để tin rằng sẽ có hành vi tấn công xảy ra với mình.
b. Phòng vệ đối với hành vi tấn công do sự “khiêu khích” của bản thân (provoked assault):
Ngoài trường hợp phòng vệ chính đáng đối với hành vi tấn công vô cớ, luật hình sự Canada xem cả những trường hợp bị cáo tự “khiêu khícho người khác tấn công mình trước, rồi sau đó chống trả lại hành vi tấn công đó cũng được xem là hành vi phòng vệ chính đáng. Tiết 35 BLHS Canada 2003 quy định như sau:
Người nào không có lý do mà gây thương tích cho người khác nhưng đã không thực hiện việc gây thương tích với ý định gây ra chết người hoặc thương tích nghiêm trọng, hoặc vô cớ khiêu khích để dẫn đến việc có người khác gây thương tích cho mình, thì có thể biện minh cho việc sử dụng sức mạnh sau khi có việc gây thương tích nếu: (a) người đó sử dụng sức mạnh: (i) Trong sự e sợ hợp lí là sẽ bị giết hoặc thương tích nghiêm trọng từ hành vi bạo lực của người mà mình gây ra thương tích hoặc khiêu khích; (ii) Với các căn cứ hợp lí tin điều đó là cần thiết để bảo toàn cá nhân
mình khỏi bị giết hoặc thương tích nghiêm trọng. (b)Người đó, tại bất kì thời điểm nào trước khi có sự cần thiết bảo toàn cá nhân mình khỏi bị giết hoặc thương tích nghiêm trọng xuất hiện, đã không có ý định làm chết người hoặc gây thương tích nghiêm trọng; và (c) Người đó đã từ chối việc tiếp tục đối đầu và từ bỏ hoặc rút lui khỏi việc đối đầu ngay khi có thể làm việc này trước khi có sự cần thiết phải bảo vệ cá nhân mình tránh khỏi bị giết hoặc thương tích nghiêm trọng.
Nội dung của Tiết này có thể được hiểu là ngay cả khi một người là nguyên nhân phát sinh xung đột và đánh nhau, sau đó người bị khiêu khích cố ý giết hoặc gây thương tích nặng cho người kia, thì người đó có thể được hưởng quy chế phòng vệ chính đáng nếu:
– Người đó không cố gắng giết hoặc làm bị thương nặng cho nạn nhân; và
– Người đó đã cố gắng không tiếp tục cuộc ẩu đả và tìm cách tháo lui khi có thể để tránh việc dùng vũ lực chống trả.
Ngược lại, nếu một người tấn công bạn và bạn tấn công lại, đồng thời dọa anh ta rằng sẽ giết anh ta hoặc làm anh ta bị thương nặng và anh ta có cơ sở hợp lý tin điều đó thực sự xảy ra, anh ta có thể được phép giết bạn nếu anh ta đã cố bỏ chạy nhưng không được. Ngay cả khi lời đe dọa của bạn chỉ là lời đe dọa, bạn không thực sự sẽ tấn công anh ta với mục đích như vậy, những lời nói và hành vi của bạn lại khiến anh ta nhầm lẫn rằng đang gặp phải nguy hiểm thực sự và cần chống trả để tự cứu mình. Hành vi chống trả của anh ta vẫn được xem là phòng vệ chính đáng bất kể anh ta gây thiệt hại cho bạn thế nào, kể cả dùng hung khí giết bạn. Nội dung này được quy định tại vụ án của Merson (vụ án của R đối với Merson) [8, tr. 251]. Tại New Westminter, B,C., bà Dafoe từ giã bạn trai của mình là Michael Merson để trở về cùng chồng mình là Allen Dafoe. Vào lúc 5 giờ sáng, Merson vào nhà ông bà Dafoe bằng cửa sổ và đi đến phòng ngủ để nói chuyện với tình địch lạ mặt của mình Allen Dafoe. Khi nhìn thấy ông Dafoe, Merson móc súng ngắn trong túi ra, chĩa vào ông Dafoe và bảo Dafoe để cho bà Dafoe đi. Chứng cứ tại phiên tòa cho thấy, hai người đàn ông cãi cọ với nhau một lúc. Merson chửi ông Dafoe, ông Dafoe vọt đi và Merson bỏ chạy, cuộc “chiến” bằng súng ngắn bắt đầu. Merson bị bắn một phát vào chân, khi đó Merson bắn ông Dafoe hai phát, một vào chân và một vào ngực. Merson sau đó bỏ chạy còn ông Dafoe chết vì trúng đạn.
Merson khai rằng khi đó anh chỉ đưa súng về phía ông Dafoe để hù dọa thôi chứ không có ý giết hay làm bị thương Dafoe. Đồng thời, sau đó Merson đã cố gắng “rút chạy” một lần nhưng bị ông Dafoe tấn công bất ngờ nên không thoát được. Merson cảm thấy phải chống lại ông Dafoe để tránh bị bắn. Cuối cùng, Merson đã thuyết phục được Tòa miễn tội cho mình.
Dường như trong vụ án này, nếu Merson chết và Dafoe sống, Dafoe cũng có thể được miễn tội. Rõ ràng theo luật hình sự Canada, người sống sót sau khi đánh nhau chẳng những được lợi về mạng sống mà sự hợp lý cũng có thể đứng về phía họ.
Thẩm phán Taggart giải thích về câu “từ chối việc tiếp tục đối đầu và từ bỏ hoặc rút lui khỏi việc đối đầu ngay khi có thể” như sau: Taggart cho rằng “cuộc đối đầu” sinh ra là bởi sự khiêu khích của bị cáo. Vì thế nếu có thể, bị cáo có nhiệm vụ phải “rút lui” hoặc không có ý định tiếp tục “cuộc đối đầu” khi nó đã và đang xảy ra. Thỏa mãn yêu cầu đó thì Tiết 35 mới được áp dụng. Do vậy, “rút lui” là một nghĩa vụ đặc trưng trong Tiết này vì nó không phải là yêu cầu bắt buộc ở các Tiết khác.
b. Phòng vệ để bảo vệ người khác
Phòng vệ để bảo vệ người khác được quy định tại Tiết 37 của BLHS Canada. Tiết này quy định như sau:
(1) Một người được biện minh khi sử dụng sức mạnh để bảo vệ mình hoặc bất kỳ người nào nằm trong sự bảo hộ của mình tránh không bị gây thương tích nếu người đó sự dụng sức mạnh ở mức không quá mức cần thiết nhằm phòng chống lại việc gây thương tích này hoặc việc lặp lại hành vi này. (2) Không có quy định nào tại Điều này được coi là biện minh cho việc cố ý gây thương tích hoặc tổn hại một cách cố ý ở mức độ vượt quá mức sau khi có cân nhắc đến bản chất của việc gây thương tích mà sức mạnh được sử dụng để phòng chống nó.
Nội dung của quy định này khá rõ ràng. Giống quy định tại đoạn 2 Tiết 34, bị cáo có thể được phép dùng vũ lực để bảo vệ mình hoặc bảo vệ người mà bị cáo có nghĩa vụ chăm sóc nếu bị cáo dùng vũ lực không vượt quá mức cần thiết. Đoạn 2 Tiết 37 nghiêm cấm hành vi dùng vũ lực vượt quá mức cần thiết. Tiết 37 không giải thích rõ nội hàm của cụm từ người nào mà bị cáo có nghĩa vụ chăm sóc là gì. Thiếu sót này đã chuyển nghĩa vụ xác định ai là người bị cáo có nghĩa vụ chăm sóc sang thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Việc xác định này chỉ có thể dựa trên tình tiết của từng vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, Tiết 37 cũng không nêu rõ liệu bị cáo có nghĩa vụ phải đợi đến khi người thứ ba (người bị tấn công) dùng vũ lực trước rồi mới có quyền phòng vệ để bảo vệ người thứ ba đó không. Pháp luật một số quốc gia chỉ cho phép bị cáo dùng vũ lực sau khi người thứ ba đã chống trả nhưng không hiệu quả.
Khi áp dụng Tiết 37 vào thực tế, đã phát sinh một số vấn đề, điển hình là vấn đề về người phụ nữ trong gia đình tồn tại nạn bạo hành sử dụng vũ lực để bảo vệ chính mình và con cái họ. Trước năm 1990, không có sự cá biệt trong trường hợp này, tức là người phụ nữ vẫn sẽ được coi như một người bình thường. Nghĩa là, để được xem xét là phòng vệ chính đáng, họ phải chứng minh được sự tấn công là thực tế hoặc sẽ diễn ra ngay tức khắc. Vụ án của Whynot (vụ án của R đối với Whynot) là một trường hợp điển hình. Whynot gây thương tích cho chồng mình khi anh này chỉ mới hăm dọa sẽ giết cô sau khi uống rượu thật say. Mặc dù có rất nhiều chứng cứ xác định trong quan hệ vợ chồng, Whynot thường xuyên bị ông chồng này đánh đập tàn nhẫn và việc cô “ra tay trước để tự vệ là cần thiết, tòa án vẫn kết tội Whynot.
Tuy nhiên, một án lệ xuất hiện năm 1990 đã thay đổi quan điểm này, mọi chuyện đã khác đi. Vào năm 1990, Tòa án tối cao của Canada xét xử vụ án một phụ nữ 22 tuổi tên Lavalee (vụ án của R đối với Lavalee) bắn sau gáy của người bạn trai mình bằng khẩu súng trường 303 khi anh này bỏ đi sau khi dọa sẽ giết cô ta. Nhiều bằng chứng chứng tỏ Lavalee đã bị ông bạn vũ phu này hành hạ thậm tệ. Hành vi của Lavalee không được tòa án áp dụng chế định phòng vệ chính đáng vì không chứng minh được rằng mình đang thực tế gặp tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Lavalee kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bằng chứng về tâm thần liên quan đến vấn đề bạo hành được Tòa xem xét. Tòa nhận xét:
Khi có chứng cứ thể hiện bị cáo sống trong điều kiện nạn bạo hành thường xuyên xảy ra, các chuyên gia tâm thần có thể là những người giúp bồi thẩm đoàn xem xét liệu bị cáo có lý hay không khi cho rằng mình đang trong tình trạng nguy hiểm chết người lúc dùng vũ lực bằng cách lý giải sự nhạy cảm mạnh của người phụ nữ thường xuyên bị hành hạ bởi hành vi của người đàn ông.
Cuối cùng, Tòa án tối cao đã hủy án sơ thẩm và miễn trách nhiệm hình sự cho Lavalee vì hành vi giết người của cô có yếu tố phòng vệ chính đáng.
BLHS Canada năm 2013 đã thu gọn rất nhiều so với 4 Tiết của BLHS Canada năm 2003, rút gọn lại thành 1 Tiết duy nhất, Tiết 34:
Phòng thủ – sử dụng hoặc đe dọa vũ lực
(1) Một người không phạm tội nếu o (a) họ tin rằng trên cơ sở hợp lý có hành vi vũ lực đang được sử dụng để chống lại họ hoặc người khác hoặc một mối đe dọa vũ lực đang được thực hiện đối với họ hoặc người khác; o (b) hành vi cấu thành tội phạm được thực hiện với mục đích tự vệ hoặc bảo vệ bản thân hoặc người khác khỏi việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực đó, và o (c) hành động được thực hiện là hợp lý trong hoàn cảnh.
- Ghi chú bên lề: Các nhân tố (2) Để xác định xem hành vi được thực hiện có hợp lý trong các trường hợp hay không, tòa án sẽ xem xét các hoàn cảnh liên quan của người đó, các bên khác và hành vi, bao gồm nhưng không giới hạn ở các yếu tố sau: o (a) tính chất của sự tấn công hoặc mối đe dọa; o (b) mức độ sắp xảy ra sử dụng vũ lực và liệu có sẵn các phương tiện khác để ứng phó với khả năng sử dụng vũ lực hay không, o (c) vai trò của người đó trong vụ việc; o (d) liệu bất kỳ bên nào trong vụ việc đã sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí; o (e) quy mô, độ tuổi, giới tính và khả năng thể chất của các bên trong vụ việc; o (f) bản chất, thời gian và lịch sử của bất kỳ mối quan hệ nào giữa các bên trong vụ việc, bao gồm bất kỳ việc sử dụng trước hoặc đe dọa vũ lực và bản chất của vũ lực hoặc đe dọa đó; o (1.1)bất kỳ lịch sử tương tác hoặc liên lạc nào giữa các bên trong vụ việc; o (g) bản chất và mức độ tương xứng của phản ứng của người đó đối với việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực; và o (h) liệu hành vi được thực hiện có phải là do sử dụng hoặc đe dọa vũ lực mà người đó biết là hợp pháp hay không.
- Ghi chú bên lề: Không phòng thủ
(3) Tiểu mục (1) không áp dụng nếu vũ lực được sử dụng hoặc đe dọa bởi người khác nhằm mục đích làm điều gì đó mà họ được pháp luật yêu cầu hoặc cho phép làm trong việc quản lý hoặc thực thi pháp luật, trừ khi người đó vi phạm Hành vi cấu thành tội tin rằng có lý do chính đáng
rằng người kia đang hành động trái pháp luật [69].
Tiết 34 BLHS Canada năm 2013 đã tổng hợp tất cả các trường hợp mà BLHS năm 2003 đã đề ra, tuy nhiên việc tổng hợp này lại khiến cho các trường hợp phòng vệ chính đáng trở nên không rõ ràng như cũ. Mặc dù vậy, các án lệ cũ vẫn được áp dụng, do đó việc rút gọn đi như vậy sẽ không có ảnh hưởng quá nhiều đối với việc xét xử của Toà án. Đồng thời, Tiết 34 của BLHS Canada năm 2013 đã nêu rõ các căn cứ để xem xét một hành vi phòng vệ hợp lý, đây là những căn cứ chính để xem xét, nhưng không phải chỉ có những căn cứ đó mà có thể dựa vào những căn cứ khác, tuỳ từng tình huống cụ thể. Cơ bản, các yếu tố để xác định một hành vi là phòng vệ chính đáng được quy định trong Tiết 34 BLHS Canada 2013 bao gồm:
– Thứ nhất, người phòng vệ tin rằng đang có hành vi sử dụng vũ lực hướng tới họ/người khác hoặc có mối đe doạ sử dụng vũ lực đang được thực hiện để chống lại họ/người khác. Có thể thấy rằng Luật hình sự Canada đã thay đổi từ việc thực tế phải có hành vi sử dụng vũ lực xảy ra với người phòng vệ thành việc người phòng vệ có cơ sở hợp lý để tin rằng mình hoặc người khác đang bị tấn công hoặc chuẩn bị bị tấn công. Thực ra đây là sự kết hợp giữa việc thực tế có hành vi tấn công và trường hợp nhầm lẫn có hành vi tấn công của người phòng vệ. Nếu ở BLHS năm 2003 đã phân chia rõ ràng các trường hợp này tại Tiết 34 như đã phân tích ở trên, BLHS năm 2013 đã gộp cả 2 trường hợp này vào một cách rất hợp lý và khoa học. Tuy nhiên, việc xác định nhận thức của một người về xác định một hành vị là hành vi hướng tới mình được xem là rất khó, vì nó không được đong đếm bằng định lượng mà phải xác định thông qua các chứng cứ, lời khai. Ngoài ra, Tiết 34 BLHS năm 2013 không xác định căn cứ của phòng vệ chính đáng là một hành vi sử dụng vũ lực ngay tức khắc mà là một “mối đe doạ vũ lực đang diễn ra” (a threat of force is being made). Kế thừa những quy định của BLHS năm 2003 và các Án lệ đã trình bày ở trên, yếu tố “mối đe doạ vũ lực đang diễn ra” bao gồm cả những hành vi tấn công ngay tức khắc, và cả những hành vi không phải chuẩn bị tấn công ngay tức khắc nhưng có đủ căn cứ hợp lý để xác định rằng sẽ có hành vi tấn công xảy ra nếu không ngăn chặn kịp thời và cả các trường hợp không hạn chế sự “cuồng tính”. Mặc dù việc quy định như vậy sẽ khiến việc tự bảo vệ bản thân và người khác, phòng chống tội phạm được thúc đẩy nhưng có thể lại là căn cứ trốn tránh trách nhiệm hình sự của những hành vi phòng vệ quá sớm.
– Thứ hai, hành vi phòng vệ được thực hiện với mục đích tự vệ hoặc bảo vệ bản thân hoặc người khác khỏi việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực đó. Về cơ bản, yếu tố thứ hai này gần như giống hoàn toàn so với quy định theo BLHS năm 2003. Đó là căn cứ vào mục đích của hành vi phòng vệ, đó là phải sử dụng để tự vệ, bảo vệ bản thân hoặc bảo vệ người khác (quy định tại Tiết 34, 35 và 37 của BLHS năm 2003). Tuy nhiên, BLHS năm 2013 đã có một thay đổi quan trọng mang tính hiện đại hơn rất nhiều. Theo như BLHS năm 2003, Tiết 37, một người chỉ được phòng vệ nếu người thuộc trách nhiệm bảo vệ của họ (any one under his protection) gặp nguy hiểm. Mặc dù BLHS năm 2003 không định nghĩa người thuộc trách nhiệm bảo vệ bao gồm những ai, nhưng chắc chắn phải có quen biết hoặc thân quen hoặc họ hàng với người phòng vệ. Việc quy định như vậy hạn chế rất nhiều việc phòng chống tội phạm, bởi lẽ những người xa lạ sẽ không có căn cứ để giúp đỡ lẫn nhau chống lại các hành vi tấn công của người khác. BLHS Canada năm 2013 đã thay đổi điều này bằng cách xác định chủ thể được bảo vệ khỏi hành vi tấn công là “người khác” (other person). Người khác có thể được xác định là bất kể người nào, do đó hành vi bảo vệ một người xa lạ khỏi một hành vi tấn công trái phép đã được chấp nhận và khuyến khích thực hiện. Đây là một thay đổi tạo ra một cơ sở rộng hơn rất nhiều các trường hợp được coi là phòng vệ chính đáng theo Luật hình sự Canada. Việc quy định như vậy phù hợp với bản chất của phòng vệ chính đáng, cũng phù hợp với đạo đức xã hội, lại càng phù hợp hơn với mục tiêu phòng chống hành vi phạm tội.
– Hành động dùng vũ lực phòng vệ là hợp lý. Tại BLHS năm 2003, chưa có những quy định cụ thể về thế nào là một hành vi hợp lý, mà chỉ có những lý luận xung quanh vấn đề này. Toà án vận dụng những án lệ, lý luận vào việc xét xử mà không có một quy phạm pháp luật cố định để áp dụng. BLHS năm 2013 đã giải quyết vấn đề này bằng điểm (2) của Tiết 34, quy định cụ thể những căn cứ xác minh một hành vi phòng vệ là hợp lý. Cụ thể, để xác minh một hành vi có phải phòng vệ hợp lý hay không, luật hình sự Canada yêu cầu xem xét các căn cứ sau:
– Tính chất của sự tấn công hoặc mối đe dọa
Đây là căn cứ đầu tiên để xác định hành vi chống trả có phải một hành vi phòng vệ chính đáng và hợp lý không? Tính chất của sự tấn công hoặc mối đe doạ sẽ tấn công chính là về tổng thể của sự tấn công hoặc đe doạ tấn công, nhằm trả lời các câu hỏi như: Sự tấn công hoặc mối đe doạ có gây ra cái chết hoặc thương tích nặng không? Sự tấn công có phải tấn công đến cùng không? Sự tấn công hoặc mối đe doạ có khả năng gây chết hoặc thương tích cho nhiều người không? Mức độ nghiêm trọng của hành vi? Nói chung, cần xác định bản chất của hành vi tấn công có nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, từ đó xác định mức độ chống trả của người chống trả có hợp lý hay không.
– Mức độ sắp xảy ra sử dụng vũ lực và liệu có sẵn các phương tiện khác để ứng phó với khả năng sử dụng vũ lực hay không?
Để xác định hành vi là phòng vệ chính đáng, cần xem xét cả khả năng sắp xảy ra vũ lực, liệu đó là xảy ra ngay tức khắc, hay có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, hay có cơ sở xác định hành vi sử dụng vũ lực sẽ xảy ra theo thói quen,... Ở mỗi trường hợp khác nhau, mức độ vũ lực được sử dụng để chống trả lại cũng khác nhau. Ngoài ra, cần xác định xem khi chuẩn bị bị tấn công, người phòng vệ có các phương tiện khác (vũ khí, dụng cụ cản trở) và có khả năng sử dụng các phương tiện đó để chống trả lại hành vi vũ lực không?
– Vai trò của người đó trong vụ việc;
Đây cũng là một căn cứ quan trọng khi xem xét đến hành vi phòng vệ chính đáng. Vai trò của người phòng vệ là vị trí của họ trong cuộc ẩu đả, đó có thể là người khiêu khích, có thể là người bị tấn công vô cớ, có thể là người thân của người
bị tấn công hoặc có thể chỉ là một người xa lạ không liên quan đến hành vi tấn công. Những quy định của BLHS năm 2003 đã phân chia thành nhiều điều khoản tương ứng cho từng vai trò của người phòng vệ. Chính vì vậy, việc xác định vai trò của người đó trong vụ việc là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới xác định hành vi phòng vệ chính đáng.
– Liệu bất kỳ bên nào trong vụ việc đã sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí;
Việc sử dụng vũ khí để tấn công người khác được coi là một tình tiết tăng sự nghiêm trọng của hành vi tấn công. Do việc dùng vũ khí có khả năng cao sẽ gây thiệt hại lớn hơn khi không dùng, nên việc sử dụng vũ khí sẽ được xem xét khi xác định hành vi phòng vệ chính đáng. Điều này không chỉ được áp dụng cho người tấn công mà còn áp dụng cho cả người phòng vệ, nếu người tấn công sử dụng vũ khí thì việc chống trả lại mạnh mẽ là cần thiết, nếu người tấn công không sử dụng vũ khí thì việc chống trả bằng vũ khí cần phải được xem xét rất cẩn thận và rõ ràng.
– Quy mô, độ tuổi, giới tính và khả năng thể chất của các bên trong vụ việc;
Đây chính là căn cứ về tương quan lực lượng của các bên. Mỗi người lại có những đặc điểm sinh lý khác nhau, do đó khả năng gây thương tích của mỗi người cũng khác nhau. Đặt vào từng tình huống cụ thể, cần xác định tương quan lực lượng của các bên để thấy được hành vi chống trả có hợp lý hay không. Vấn đề này đã được BLHS năm 2003 xác định và đã có những án lệ hướng dẫn cụ thể như đã trình bày ở phần trước.
– bản chất, thời gian và lịch sử của bất kỳ mối quan hệ nào giữa các bên trong vụ việc, bao gồm bất kỳ việc sử dụng trước hoặc đe dọa sử dụng vũ lực và bản chất của vũ lực hoặc đe dọa đó;
Mặc dù yếu tố quan hệ giữa các bên trong cuộc ẩu đả được xem xét đến như là một căn cứ xác định hành vi phòng vệ chính đáng, nhưng pháp luật Canada không quy định rõ vấn đề này. Có thể, người phòng vệ trên thực tế là người khiêu khích hoặc tấn công trước, với một mức độ thấp, hoặc là người đã có những hành vi bạo hành về vật chất và tinh thần đối với người tấn công. Tức là người phòng vệ đó có thể là người có hành vi xử sự không tốt trước, việc xác định hành vi phòng vệ chính đáng sẽ dựa vào những yếu tố này.
– Bản chất và mức độ tương xứng của phản ứng của người đó đối với việc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực; và
Hành vi phản kháng phải phù hợp và tương xứng với hành vi tấn công. Đây là yếu tố quan trọng nhất để xác định hành vi phòng vệ chính đáng, và tất nhiên cũng là yếu tố khó xác định nhất. Một hành vi phòng vệ hợp lý thì có nhiều căn cứ để xác định theo BLHS Canada, nhưng một phản ứng tương xứng đối với việc sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực lại không được hướng dẫn cụ thể. Mặc dù đây là phần khó xác định nhất, tương xứng cũng không thể xác định một cách định | lượng được bởi đó là sự xác định máy móc, không phù hợp.
– Liệu hành vi được thực hiện có phải là do sử dụng hoặc đe dọa vũ lực mà người đó biết là hợp pháp hay không.
Người phòng vệ chỉ được xét là phòng vệ chính đáng khi hành vi tấn công là hành vi trái pháp luật. Những hành vi tấn công hợp pháp có thể là hành vi bắt giữ người phạm tội của cảnh sát, hành vi trong tình thế cấp thiết,... Những hành vi này được pháp luật Canada cho phép thực hiện, do đó khi nó xảy ra, người chịu hậu quả không có quyền được chống trả lại để ngăn cản thiệt hại gây ra cho mình. Thậm chí, nếu họ chống trả có thể phải chịu TNHS về một số tội phạm khác.
2. Phòng vệ để bảo vệ tài sản (defence of property):
Pháp luật Canada thừa nhận quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản của con người. Do đó, nếu tài sản của một người bị xâm phạm, người đó không cần phải rút lui khỏi hắn và yêu cầu Tòa án đòi lại tài sản cho mình, luật hình sự Canada cho phép bạn bất cứ lúc nào cũng có thể dùng vũ lực khi cần thiết để lấy lại tài sản của mình bị tước đoạt bởi người khác.
Tùy từng trường hợp, Luật hình sự Canada cho phép được dùng vũ lực để bảo vệ tài sản của mình hoặc do mình quản lý, được quy định cụ thể từ Tiết 38 đến Tiết 42 của BLHS Canada năm 2003 và Tiết 35 của BLHS năm 2013. Theo đó, bất cứ người nào đang sở hữu hợp pháp tài sản là động sản cũng có quyền dùng vũ lực ở mức tối thiểu nhằm ngăn chặn việc bị lấy đi tài sản của mình hoặc đoạt lại tài sản bị người khác chiếm giữ trái phép. Một người đang sở hữu tài sản một cách ngay tình (tạm dịch từ “peaceable possession of property under a claim of right”) [4, tr. 242] cũng có quyền dùng vũ lực, thậm chí đối với người đang kiện đòi quyền sở hữu đối với tài sản đó, để bảo vệ tài sản. Đối với bất động sản, luật hình sự cũng cho phép sử dụng vũ lực để bảo vệ. Cụ thể nếu một người xâm phạm chỗ ở và chống lại bạn khi bạn đang ngăn cản họ thì bị xem là hành vi tấn công người khác trái phép. Khi đó, bạn sẽ được luật cho phép dùng vũ lực cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe mạnh (bên cạnh việc bảo vệ tài sản). Nhìn chung các Tiết không hạn chế mức độ dùng vũ lực, miễn sao là cần thiết để bảo vệ tài sản, thậm chí giết chết kẻ xâm phạm tài sản.
a. Phòng vệ để bảo vệ tài sản cá nhân (defence of personal property):
Luật hình sự Canada có phân biệt giữa trường hợp bảo vệ tài sản của mình hoặc tài sản mà mình được pháp luật trao quyền sở hữu với tài sản mà mình chỉ chiếm hữu.
Trường hợp tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, luật quy định tại Tiết 38:
(1) Một người đang chiếm hữu một cách bình yên tài sản cá nhân và bất kì ai hỗ trợ người này một cách hợp pháp đều được biện minh khi (a) Phòng chống lại một người xâm phạm không cho lấy đi tài sản này, hoặc (b) Lấy lại tài sản đó từ người xâm phạm khi người xâm phạm lấy đi, nếu người đó không đánh hoặc gây thương tích cho người xâm phạm. (2) Khi một người đang chiếm hữu trong tay tài sản cá nhân mà một người cố gắng chiếm đoạt hoặc lấy tài sản đó từ người này hoặc từ bất kỳ người nào đang trợ giúp người đó một cách hợp pháp sẽ bị coi là đã thực hiện việc gây thương tích không có lý do hoặc vô cớ.
Tiết này chỉ áp dụng đối với tài sản cá nhân, trừ bất động sản. Cho nên, ngay cả một người đang sở hữu ngay tình tài sản nhưng không là chủ sở hữu (không có tranh chấp) cũng không được dùng quy định này để bảo vệ tài sản đó.
Theo Tiết 38, chẳng hạn nếu bạn phát hiện được kẻ trộm đang giữ chiếc xe đạp của bạn, bạn không chỉ có quyền giành lại chiếc xe rồi bỏ mặc tên trộm mà còn có quyền bắt hắn lại và bảo: “anh đã bị bắt” (theo Tiết 27 BLHS Canada). Tuy nhiên, bạn không được đánh tên trộm đó trừ phi hắn chống lại bằng vũ lực và việc dùng vũ lực là để ngăn chặn sự tấn công của gã (đoạn 2 Tiết 38). Theo đoạn 2, bị cáo được phép dùng vũ lực đối với kẻ chiếm đoạt tài sản nếu kẻ này có hành vi chống lại. Vũ lực mà bị cáo dùng ở đây sẽ được xem xét là phòng vệ chính đáng theo Tiết 34 (đã đề cập ở trên). Lưu ý, người được xem xét áp dụng phòng vệ chính đáng ở đây gồm chủ sở hữu (không có tranh chấp) và những người giúp đỡ chủ sở hữu.
Tiết 39 quy định phòng vệ trong trường hợp tài sản mà bị cáo đang chiếm hữu ngay tình. Quy định này như sau:
(1) Bất kì người nào đang chiếm hữu bình yên tài sản cá nhân theo một yêu cầu về quyền và bất kì người nào hành động theo thẩm quyền người đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự cho việc bảo vệ quyền chiếm hữu này, thậm chí cả khi chống lại một người theo pháp luật được quyền chiếm hữu tài sản đó, nếu người đó sử dụng sức mạnh không vượt quá mức cần thiết. (2) Bất kì người nào đang chiếm hữu bình yên tài sản cá nhân, nhưng lại không yêu cầu tài sản này như là một quyền hoặc không hành động theo thẩm quyền của người có yêu cầu nó như là quyền thì đều không được biện minh hoặc không được miễn trách nhiệm hình sự cho việc bảo vệ quyền chiếm hữu của mình chống lại người có quyền theo pháp luật được chiếm hữu tài sản đó.
Pháp luật ưu tiên bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu thực tế hoặc theo pháp luật hơn người chiếm hữu tài sản nhưng không ngay tình hoặc không có cơ sở. Vì thế, những người thực tế có tài sản nhưng chưa có cơ sở xác lập quyền sở hữu hợp pháp và những ai giúp đỡ anh ta sẽ không có quyền chống lại người đang có quyền sở | hữu ngay tình về tài sản đó nếu có tranh chấp. Vụ án của Nykolyn (vụ án của Nykolyn đối với the King) minh họa nội dung này. Ông Nykolyn giữ chiếc va–ly của một phụ nữ trẻ vì cô này thiếu tiền thuê phòng của ông ta (tại Winnipeg, 1946). Vài người bạn của cô ta đến chỗ của Nykolyn dọa ông ta để đòi lại hành lý, nhưng Nykolyn không trả mà còn đánh một trong số những người bạn đó bằng búa. Nykolyn bị kết án tội gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên thẩm phán tòa phúc thẩm, ngài Estey, nhấn mạnh rằng tòa sơ thẩm đã phớt lờ, không áp dụng Tiết 39 vào trường hợp của Nykolyn. Estey ra quyết định mở phiên tòa phúc thẩm để xem xét hành vi của Nykolyn có phải là hành vi vượt quá giới hạn cho phép để chống lại ba người đàn ông. Nếu hành vi này không vượt quá thì Nykolyn sẽ được miễn tội.
b. Phòng vệ để bảo vệ nhà ở và bất động sản (defence of dwelling-house and real property)
Tiết 40 quy định:
Bất kì người nào chiếm hữu bình yên một ngôi nhà ở và bất kì ai hỗ trợ hợp pháp người đó hoặc hành động theo thẩm quyền của người đó đều được biện minh khi sử dụng sức mạnh ở mức cần thiết để chống lại bất kì ai dùng sức mạnh xâm nhập vào ngôi nhà đó mà không có thẩm quyền hợp pháp.
Tiết 40 cho phép chủ sở hữu (không có tranh chấp) nhà ở và những người giúp đỡ chủ sở hữu ngăn chặn kẻ xâm nhập bất hợp pháp nhà ở. Quy định này áp dụng cả đối với người đang thi hành công vụ (cảnh sát) khi người này có hành vi vượt quá thẩm quyền, cố ý xâm nhập chỗ ở người khác.
Tiết 41 quy định:
(1) Bất kì người nào chiếm hữu bình yên một ngôi nhà ở hoặc bất động sản và bất kì ai hỗ trợ hợp pháp người này hoặc hành động theo thẩm quyền của người này đều được biện minh khi sử dụng sức mạnh để chống lại bất kì ai xâm nhập ngôi nhà ở hoặc bất động sản đó, hoặc để di dời người xâm nhập ra khỏi đó nếu người đó sử dụng sức mạnh không quá mức cần thiết. (2) Một người xâm nhập vào nhà ở hoặc bất động sản chống lại sự cố gắng của người đang chiếm hữu bình yên nhà ở hoặc bất động sản đó hoặc chống lại người hỗ trợ hợp pháp người chiếm hữu hoặc hành động theo thẩm quyền của người đó nhằm chống lại việc xâm nhập hoặc đuổi người xâm nhập thì bị coi là đã thực hiện hành vi gây thương tích vô cớ hoặc khiêu khích.
Thuật ngữ “xâm nhập” ở đây được hiểu là hành vi xâm phạm trái phép bất động sản của người khác. Một người lạ mặt có thể có quyền vào chỗ, bất động sản của bạn để hỏi thăm một cựu chủ sở hữu, chẳng hạn, nhưng sẽ trở thành “người xâm nhập” nếu bạn mời hắn rời khỏi mà hắn từ chối.
Theo đoạn 1 Tiết 41, bị cáo không được dùng vũ lực mà chỉ có thể dùng lời nói để ngăn chặn kẻ xâm nhập hoặc đuổi kẻ xâm nhập ra khỏi chỗ ở, bất động sản. Tuy nhiên, nếu kẻ xâm nhập chống lại yêu cầu đó thì bị cáo có thể dùng vũ lực và hành vi dùng vũ lực sẽ được xem xét là phòng vệ chính đáng theo Tiết 34 BLHS năm | 2003. Trở lại vụ án của Stephan (Xem Lịch sử Luật hình sự Anh (1883), quyển 3, trang 15). Stephan có thể đuổi kẻ xâm nhập ra khỏi nhà hoặc đất của mình nhưng không được đánh người đó. Nếu kẻ xâm nhập chống lại, Stephan được phép dùng vũ lực. Hơn thế nữa, nếu kẻ xâm nhập tấn công, Stephan có quyền dùng bất cứ hành vi nào được cho là cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình.
Tiết 42 quy định:
(1) bất kì người nào cũng đều được bảo vệ khi đi vào một cách hoà bình một ngôi nhà ở hoặc bất động sản vào ban ngày để chiếm hữu ngôi nhà hoặc bất động sản đó, nếu người này hoặc người khác hành động theo thẩm quyền của người này có quyền theo pháp luật được quyền chiếm hữu. (2) Khi một người (a)Không có quyền chiếm hữu một ngôi nhà hoặc bất động sản theo yêu cầu về quyền, hoặc (b) Không hành động theo thẩm quyền của người có sự chiếm hữu ngôi nhà hoặc bất động sản theo yêu cầu về quyền (3) Khi một người (a) Có sự chiếm hữu bình yên một ngôi nhà hoặc bất động sản theo yêu cầu về quyền, hoặc (b) Hành động theo thẩm quyền của người có sự chiếm hữu bình yên theo yêu cầu về quyền. Mà gây thương tích cho bất kì ai có quyền hợp pháp đối với việc chiếm hữu ngôi nhà hoặc bất động sản và đi vào ngôi nhà hoặc bất động sản một cách hoà bình, với mục đích ngăn cản người đó không được vào, thì việc gây thương tích này được coi là bị khiêu khích bởi người đã xâm nhập.
Trước hết, đoạn 1 Tiết 42 công nhận quyền “đi vào” nhà ở hay bất động sản vào ban ngày của những chủ sở hữu hợp pháp. Nên nhớ rằng, chủ sở hữu trong trường hợp này chỉ có quyền đối với tài sản của mình vào ban ngày chứ không phải ban đêm. Cho nên, nếu chủ sở hữu “đi vào” nhà ở hay bất động sản vào ban đêm thì có thể cấu thành tội xâm nhập chỗ ở ban đêm (Tiết 177 BLHS). Vấn đề khó ở đây là cả Bộ luật lẫn Tòa án tối cao đều không có hướng dẫn xác định ban ngày là thời gian nào (?). Tiếp theo, đoạn 2 & 3 Tiết 42 nêu cụ thể khi nào các chủ thể có quyền dùng vũ lực để bảo vệ tài sản của mình. Các quy định này rất chi tiết, chúng ta có thể hiểu rõ mà không cần giải thích gì thêm.
BLHS năm 2013 do đã rút gọn phòng vệ chính đáng do bị tấn công thành một Tiết nên Tiết phòng vệ để bảo vệ tài sản cũng được rút lại tại Tiết 35. Tiết 35 có nội dung như sau:
Phòng thủ – tài sản 35 (1) Một người không phạm tội nếu (a) Họ tin tưởng rằng có lý do hợp lý rằng họ đang sở hữu một cách hòa bình tài sản hoặc đang hành động dưới quyền của, hoặc hỗ trợ hợp pháp, một người mà họ tin rằng dựa trên lý do hợp lý là sở hữu tài sản một cách hòa bình; (b) Họ tin tưởng trên cơ sở hợp lý rằng một người khác: (i) Sắp vào, đang vào hoặc đã vào tài sản mà pháp luật không cho phép làm như vậy. (ii) sắp chiếm lấy tài sản, đang chiếm hoặc vừa mới làm như vậy, hoặc
(iii) sắp làm hỏng hoặc phá hủy tài sản, hoặc làm cho nó không hoạt động, hoặc đang làm như vậy, (c) hành vi cấu thành tội phạm được thực hiện với mục đích (i) ngăn cản người khác vào tài sản, hoặc đưa người đó ra khỏi tài sản, hoặc (ii) ngăn cản người kia lấy, làm hư hỏng hoặc phá hủy tài sản hoặc làm cho nó không hoạt động, hoặc lấy lại tài sản từ người đó; và (d) hành động được thực hiện là hợp lý trong hoàn cảnh.
Lưu ý ngoài lề: Không phòng thủ (2) Tiểu mục (1) không áp dụng nếu người tin tưởng dựa trên lý do hợp lý rằng họ đang có, hoặc người được cho là có lý do hợp lý để chiếm hữu tài sản một cách hòa bình không có yêu cầu về quyền đối với tài sản đó và người khác người được quyền sở hữu nó theo luật. Lưu ý ngoài lề: Không phòng thủ (4) Tiểu mục (1) không áp dụng nếu người kia đang làm điều gì đó mà họ được pháp luật yêu cầu hoặc cho phép làm trong việc quản lý hoặc thực thi pháp luật, trừ khi người thực hiện hành vi cấu thành tội phạm tin rằng hợp lý căn cứ rằng người kia đang hành động trái pháp luật [39]. | Tiết 35 BLHS Canada năm 2013 một mặt đã rút gọn các trường hợp phòng vệ chính đáng để bảo vệ tài sản so với BLHS Canada năm 2003, một mặt đã loại bỏ một số quy định không hợp lý hoặc có tính rườm rà, không cần thiết. Nếu ở BLHS năm 2003, việc phòng vệ đối với tài sản được chia thành phòng vệ đối với động sản (Tiết 38, 39) và phòng vệ đối với tài sản là bất động sản (Tiết 40, 41 và 42), Tiết 35 BLHS Canada năm 2013 đã không phân chia rõ ràng như vậy mà chỉ nêu hành vi cụ thể và gọi chung hai loại tài sản này là tài sản. Bên cạnh đó, BLHS năm 2013 đã chú trọng hơn vào những điều kiện xác định một hành vi là phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ tài sản. Theo đó, các điều kiện được đưa ra để xác định một hành vi là phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ tài sản được trình bày như sau:
– Thứ nhất, người phòng vệ phải tin tưởng rằng, có những căn cứ hợp lý để xác nhận rằng tài sản bị xâm phạm thuộc quyền sở hữu của họ, hoặc họ được chủ sở hữu tài sản giao tài sản cho quản lý, sử dụng. Các căn cứ hợp lý có thể là những giấy tờ mua bán bất động sản, những xác nhận của cơ quan nhà nước về chủ sở hữu của bất động sản, giấy tờ xác nhận chủ sở hữu đối với động sản,... Từ những căn cứ này, người phòng vệ có niềm tin hợp lý rằng anh ta có quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản. Trường hợp thứ hai là người phòng vệ được giao, được nhờ, được thuê để quản lý tài sản, sử dụng tài sản. Ví dụ, người phòng vệ là người được thuê để trông giữ nhà ở, trông giữ xe cộ. Chỉ có những chủ thể này mới có quyền phòng vệ để bảo vệ tài sản của mình.
– Thứ hai, những chủ thể này chỉ có quyền phòng vệ khi có hành vi hoặc họ tin tưởng hợp lý là có hành vi xâm phạm tới tài sản của họ. Những hành vi xâm phạm có thể là (1) có người sắp vào, đang vào hoặc đã vào tài sản mà pháp luật không cho phép làm như vậy; (2) có người sắp chiếm, đang chiếm hoặc vừa mới chiếm lấy tài sản hoặc (3) có người sắp hoặc đang làm hỏng, phá hủy tài sản, hoặc làm cho nó không hoạt động. Trường hợp thứ nhất chỉ được áp dụng cho bất động sản (nhà ở, kho xưởng và các bất động sản khác), nhằm ngăn chặn một người xâm phạm trái phép tới bất động sản của mình. Đây không chỉ là trường hợp bảo vệ tài sản mà có xu hướng bảo vệ cả thân thể của những người đang ở trong bất động sản bởi một người xâm phạm trái phép vào bất động sản của người khác có khả năng sẽ tấn công chủ sở hữu tài sản và những người đang ở trong tài sản đó. Các trường hợp 2 và 3 được áp dụng cho tài sản nói chung, bao gồm cả động sản và bất động sản. Trường hợp 2 cho phép ngăn chặn hành vi chiếm tài sản trái phép, trường hợp 3 cho phép ngăn chặn hành vi làm hỏng tài sản trái phép.
– Thứ ba, hành vi phòng vệ được thực hiện với các mục đích phòng ngự, cụ thể là những mục đích (1) nhằm ngăn cản người khác xâm nhập trái phép vào tài sản và (2) nhằm ngăn cản một người lấy, làm hư hỏng hoặc lấy lại tài sản từ người đó. Đây là các mục đích chính đáng nhằm bảo vệ cho tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của mình. Tuy nhiên, việc chứng minh mục đích của hành vi phụ thuộc vào nhiều yếu tố và khá khó xác định trong một số trường hợp.
– Cuối cùng, hành vi phòng vệ phải được thực hiện hợp lý trong hoàn cảnh.
Luật hình sự Canada năm 2013 không hướng dẫn cụ thể hành vi nào là hành vi hợp lý, do đó cần dựa vào những quy định cũ của Luật hình sự 2003 và các án lệ để xác định một hành vi là hợp lý trong hoàn cảnh. Đồng thời sử dụng khái niệm “người hợp lý” đã trình bày ở trên để xác định. Mặc dù việc xác định phụ thuộc vào thẩm phán của các phiên toà, nhưng bằng việc xác định rất nhiều án lệ trong quá khứ, do đó việc xét xử các trường hợp phòng vệ chính đáng của các thẩm phán Canada không gặp quá nhiều khó khăn như các quốc gia theo xu hướng Civil law khác.
Ngoài ra, việc xác định một hành vi có phải phòng vệ chính đáng không còn phải dựa vào các trường hợp người phòng vệ không có quyền được phòng vệ. Các trường hợp này được BLHS Canada 2013 quy định cụ thể ở khoản 2 và khoản 3 Tiết 35. Cụ thể, trường hợp đầu tiên là trường hợp mà một người, anh ta tin rằng mình dựa trên một lý do hợp lý mà đang có tài sản hợp pháp, hoặc anh ta được cho rằng có lý do hợp lý mà đang có tài sản một cách hợp pháp nhưng không yêu cầu về quyền đối với tài sản đó và người khác được quyền sở hữu nó theo luật. Trường hợp thứ hai là trường hợp người xâm phạm tài sản của người phòng vệ là người được phép thực hiện hành vi đó thông qua việc được pháp luật yêu cầu hoặc cho phép làm trong việc quản lý hoặc thực thi pháp luật. Đây là các trường hợp mà người xâm phạm tới tài sản của người khác mà không phải là hành vi vi phạm pháp luật, do đó người phòng vệ không có quyền phòng vệ.
Luật hình sự Canada là một ngoại lệ vì có xem xét phòng vệ chính đáng đối với những hành vi giúp đỡ người thi hành công vụ. Pháp luật các nước trên thế giới cũng có quy định những hành vi như vậy hoặc tương tự như vậy sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (hoặc không bị xem là phạm pháp) nhưng không xem là trường hợp của phòng vệ chính đáng. Chẳng hạn, theo pháp luật Việt Nam, bắt người phạm pháp được xem là hành vi hợp pháp (Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự). Không giống như các trường hợp phòng vệ chính đáng do bị tấn công và phòng vệ chính đáng để bảo vệ tài sản, chế định phòng vệ chính đáng khi giúp đỡ người thi hành công vụ không bị sửa đổi qua BLHS năm 2013. Do đó, trong phần trình bày này, tác giả sẽ không sử dụng thuật ngữ “BLHS Canada năm 2003” và “BLHS Canada năm 2013” mà dùng chung là “BLHS Canada”.
a. Ngăn chặn hành vi phạm tội:
Tiết 27 BLHS Canada quy định:
Người được biện minh khi sử dụng sức mạnh ở mức độ cần thiết hợp lí (a) Để chống lại việc thực hiện hành vi phạm tội (i) Mà đối với hành vi phạm tội này nếu được thực hiện thì người đã thực hiện tội phạm có thể bị bắt mà không cần có lệnh bắt, và (ii) Hành vi phạm tội có nhiều khả năng gây ra thương tích, thiệt hại nghiêm trọng ngay lập tức cho người hoặc tài sản của bất kì ai; hoặc. (b) Để chống lại bất kì điều gì đang được thực hiện mà người này theo căn cứ hợp lí tin là nếu để cho thực hiện thì sẽ là một tội được quy định tại khoản (a) [34, tr. 63]. Bàn về thuật ngữ “hợp lý” trong Tiết này, thẩm phán Dickson viết:
Để đánh giá hành vi được dùng để ngăn chặn tội phạm) có hợp lý hay không, tòa án cần cân nhắc tất cả các tình tiết, như mức độ và bản chất của hành vi, khả năng dùng các biện pháp khác để ngăn chặn tội phạm, bản chất của hành vi phạm tội… Tình tiết gây chết người để ngăn chặn tội phạm phải được xem là khả năng sau cùng.
Nếu sau khi cân nhắc, hành vi dùng vũ lực rõ ràng là vượt quá mức cần thiết để ngăn chặn tội phạm thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
b. Ngăn chặn hành vi gây rối trật tự công cộng:
Tiết 30 quy định:
Bất kì ai chứng kiến một vi phạm sự bình yên, trật tự đều được biện minh khi can thiệp vào để chống lại sự tiếp tục hoặc lại xảy ra vi phạm này và có thể bắt giữ bất kì người nào thực hiện hoặc đang định tham gia vào hoặc làm xảy ra sau đó sự vi phạm này để chuyển giao người này cho cán bộ trật tự giam giữ nếu người chứng kiến này sử dụng sức mạnh không quá mức cần thiết hợp lí để chống lại sự tiếp tục hoặc lại xảy ra vi phạm này hoặc không quá mức tương ứng hợp lí so với sự nguy hiểm của việc tiếp tục hoặc lại xảy ra sự vi phạm bình yên, trật tự này. Một số điểm cần lưu ý chúng ta có thể rút ra từ Tiết 30: – Hành vi gây rối trật tự công cộng phải được người ngăn chặn tận mắt chứng kiến;
– Chỉ được phép ngăn chặn hành vi gây rối đang diễn ra hoặc tiếp tục (sau khi gián đoạn);
– Người gây rối có thể bị bắt giữ chỉ với mục đích giao cho cơ quan có thẩm quyền;
– Vũ lực được dùng không vượt quá mức cần thiết so với hành vi gây rối. c. Ngăn chặn hành vi “nổi loạn” (riot):
Đoạn 3 & 4 Tiết 32 quy định:
(3) bất kì người nào cũng đều được biện minh khi tuân theo lệnh của cán bộ trật tự trong việc sử dụng sức mạnh để trấn áp bạo loạn nếu (a)Người này hành động một cách trung thực, và (b) Lệnh không rõ ràng là trái pháp luật. (4) Bất kì người nào một cách trung thực và theo các căn cứ hợp lí tin là một mối nguy hại nghiêm trọng sẽ xảy ra từ một cuộc bạo loạn trước khi có thể gọi được cán bộ trật tự là được biện minh khi sử dụng sức mạnh ở mức độ mình tin tưởng một cách trung thực và theo căn cứ hợp lí (a) Là cần thiết để trấn áp bạo loạn, và (b) Không vượt quá mức sau khi có cân nhắc đến sự nguy hiểm của việc tiếp tục có cuộc bạo loạn này.
“Bạo loạn” trong quy định này được hiểu là hành vi gây rối trật tự của từ ba người trở lên với tính chất hỗn độn và bạo lực nhằm mục đích hù dọa chung hoặc khủng bố. Theo luật hình sự Canada, bất cứ mọi cá nhân đều có quyền “đối đầu” (confront) với một nhóm từ ba người trở lên:
– Khi có cơ sở cho rằng họ sắp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác;
– Và việc dùng vũ lực không vượt quá mức cần thiết để đảm bảo an ninh chung cũng như sự an toàn của người khác.
Ngăn chặn hành vi nổi loạn vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của mọi công dân.
Theo Tiết 118 BLHS Canada, một người có thể bị kết án tội từ chối giúp đỡ cảnh sát mà không có lý do khi được yêu cầu. Tiết 32 là một quy định cụ thể mà khi đó công dân cần và phải giúp đỡ cảnh sát trong việc ngăn chặn hành vi nổi loạn. Dĩ nhiên, nếu một người nào đó trong nhóm nổi loạn bị thương hoặc chết dưới tay anh, hành vi của anh sẽ được xem xét, đánh giá tính “hợp lý” và “cần thiết”. Nếu hành vi của anh là cần thiết thì anh sẽ được miễn tội vì quy định của phòng vệ chính đáng được áp dụng. Ngược lại, anh sẽ bị kết tội.