Hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam là việc những tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng trang thông tin điện tử kinh doanh dịch vụ quảng cáo từ hệ thống các thiết bị cung cấp dịch vụ đặt ngoài lãnh thổ Việt Nam, cho những người sử dụng tại Việt Nam, có phát sinh doanh thu tại Việt Nam. Vậy quy định mới về kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thực trạng về việc kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam trước khi chưa có quy định mới về kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới:
Theo báo cáo Vietnam Digital Marketing Trends 2021, quy mô của thị trường quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam năm 2020 ước đạt được 820 triệu USD. Trong đó, đến 80% doanh thu khổng lồ này rơi vào túi của Google, Facebook, YouTube… Theo Bộ Thông tin – Truyền thông, hai nền tảng được những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân lựa chọn thực hiện quảng cáo trực tuyến nhiều nhất ở Việt Nam chính là Google và Facebook, nó chiếm khoảng 70% doanh thu thị trường quảng cáo trực tuyến.
Trong báo cáo về tình hình thu ngân sách tháng 7/2020 và triển khai các nhiệm vụ cuối năm, Tổng cục Thuế đã khẳng định Google, Facebook, Netflix, Youtube… vẫn chưa thực hiện đóng thuế đầy đủ, minh bạch tại Việt Nam cũng như là ủy nhiệm cho các ngân hàng, đối tác tại Việt Nam thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ thuế. Các nền tảng mạng xã hội, trong đó có cả Google, Facebook, Netflix, Youtube… chiếm khoảng 70% thị phần về quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam, đã bỏ túi hàng tỷ USD mỗi năm tuy nhiên họ chỉ đóng thuế nhỏ giọt.
Chính vì thế, nhà nước ta đã ban hành văn bản pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý để quản lý tốt hơn trong việc kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam.
2. Quy định mới về kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới:
Ngày 20/07/2021 Nhà nước ta đã ban hành Nghị định Nghị định 70/2021/NĐ-CP sửa đổi
2.1. Hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam:
– Hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam là việc những tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng các trang thông tin điện tử kinh doanh dịch vụ quảng cáo từ những hệ thống thiết bị cung cấp dịch vụ đặt ngoài lãnh thổ Việt Nam, cho những người sử dụng tại Việt Nam, có phát sinh doanh thu tại Việt Nam;
– Trang thông tin điện tử kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Nghị định 70/2021/NĐ-CP là hệ thống thông tin sử dụng một hoặc nhiều các trang thông tin điện tử dưới dạng ký hiệu, số, chữ viết hay hình ảnh, âm thanh và các dạng thông tin khác nhằm để cung cấp cho người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, dịch vụ sử dụng, tìm kiếm, trao đổi thông tin, chia sẻ âm thanh, hình ảnh, tạo các diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến để cung cấp dịch vụ quảng cáo.
– Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo và những người quảng cáo ở trong nước và ngoài nước tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam phải tuân thủ những quy định của pháp luật Việt Nam về quảng cáo, các quy định về an ninh mạng và quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng về dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; phải nộp thuế theo quy định pháp luật về thuế;
– Các tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam ngoài việc phải tuân thủ các quyền và nghĩa vụ đã được quy định tại Điều 13 Luật Quảng cáo và các quy định sau:
+ Thực hiện thông báo thông tin liên hệ với Bộ Thông tin và Truyền thông những nội dung sau:
* Tên của tổ chức, tên giao dịch, địa chỉ trụ sở chính nơi thực hiện đăng ký hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo; địa điểm về đặt hệ thống máy chủ chính cung cấp dịch vụ và hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam (nếu có);
* Đầu mối liên hệ: tên của tổ chức, cá nhân đại diện tại Việt Nam (nếu có), địa chỉ email, số điện thoại liên hệ;
* Hình thức và thời gian thông báo: 15 ngày trước khi mà bắt đầu kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam, những tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi thông báo trực tiếp, hoặc gửi qua đường bưu chính, hoặc qua phương tiện điện tử đến Bộ Thông tin và Truyền thông;
* Khi nhận thông báo, cơ quan tiếp nhận phải có trách nhiệm gửi giấy xác nhận bằng văn bản hoặc gửi qua phương tiện điện tử cho tổ chức, doanh nghiệp trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo;
+ Không đặt sản phẩm quảng cáo vào nội dung mà vi phạm pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 8
+ Thực hiện việc ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin vi phạm pháp luật theo yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông và những cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quy định tại Điều 14 của Nghị định 70/2021/NĐ-CP; cung cấp các thông tin về tổ chức, cá nhân có liên quan tới hoạt động quảng cáo xuyên biên giới mà có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền khi mà có yêu cầu.
– Người phát hành quảng cáo, người quảng cáo khi tham gia vào giao kết hợp đồng với người kinh doanh dịch vụ quảng cáo (bao gồm có tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước cung cấp về dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới) có quyền và nghĩa vụ:
+ Yêu cầu người kinh doanh dịch vụ quảng cáo không được đặt sản phẩm quảng cáo vào nội dung mà có vi phạm pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng, Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ;
+ Yêu cầu người kinh doanh dịch vụ quảng cáo phải có giải pháp kỹ thuật để người phát hành quảng cáo, người quảng cáo tại Việt Nam có thể kiểm soát được và loại bỏ các sản phẩm quảng cáo có vi phạm pháp luật Việt Nam trên hệ thống cung cấp dịch vụ.
– Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo, người thực hiện quảng cáo không hợp tác phát hành các sản phẩm quảng cáo với trang thông tin điện tử mà đã được cơ quan chức năng có thẩm quyền thông báo vi phạm pháp luật công khai ở trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông.
2.2. Trách nhiệm quản lý đối với hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới:
– Các bộ, ngành, địa phương phải có trách nhiệm phát hiện và xác định các quảng cáo xuyên biên giới có vi phạm pháp luật theo thẩm quyền đã được phân công tại những quy định pháp luật về quản lý và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quảng cáo.
Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan tiếp nhận những thông báo về quảng cáo xuyên biên giới có vi phạm pháp luật từ các bộ, ngành, địa phương và là đầu mối liên hệ, gửi các yêu cầu xử lý quảng cáo vi phạm pháp luật cho những tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới.
– Sau khi tiếp nhận các bằng chứng quảng cáo xuyên biên giới vi phạm pháp luật thì trong thời hạn 05 ngày, Bộ Thông tin và Truyền thông phải có trách nhiệm rà soát, kiểm tra các nội dung vi phạm và gửi yêu cầu xử lý bằng văn bản hoặc qua các phương tiện điện tử cho những tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới. Thông tin về những quảng cáo vi phạm đã được gửi cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới để xử lý sẽ phải được thông báo công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông.
+ Sau khi nhận được yêu cầu từ Bộ Thông tin và Truyền thông thì trong thời gian 24 giờ, các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới phải thực hiện việc xử lý quảng cáo vi phạm theo yêu cầu;
+ Sau thời hạn nêu trên, nếu như các tổ chức, cá nhân nước ngoài không xử lý quảng cáo vi phạm theo yêu cầu mà lại không có lý do chính đáng thì Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ thực thi những biện pháp ngăn chặn quảng cáo vi phạm pháp luật;
+ Trong trường hợp phát hiện quảng cáo xuyên biên giới có vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến an ninh quốc gia Việt Nam thì cơ quan chức năng có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện ngay những biện pháp ngăn chặn quảng cáo vi phạm pháp luật;
+ Biện pháp ngăn chặn chỉ được gỡ bỏ sau khi những quảng cáo vi phạm đã được tổ chức, cá nhân nước ngoài xử lý theo đúng yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông.
2.3. Báo các định kỳ:
– Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong nước có hợp tác với các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh về dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam phải thực hiện báo cáo định kỳ hàng năm (vào trước ngày 31 tháng 12) hoặc thực hiện báo cáo đột xuất khi mà có yêu cầu về hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam cho Bộ Thông tin và Truyền thông. Báo cáo được gửi qua một trong những hình thức: gửi báo cáo trực tiếp, qua đường bưu chính hoặc qua phương tiện điện tử.
– Các Sở Thông tin và Truyền thông thực hiện báo cáo định kỳ hàng năm (vào trước ngày 31 tháng 12) hoặc thực hiện báo cáo đột xuất khi có yêu cầu theo các chức năng, nhiệm vụ đã được phân công về quản lý các hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam cho Bộ Thông tin và Truyền thông.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật quảng cáo 2012;
– Nghị định 70/2021/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 181/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quảng cáo;
– Nghị định 181/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật quảng cáo.