Vợ chồng có trách nhiệm liên đới khi trả nợ hay không? Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có những quy định gì về vấn đề này?
Ở Việt Nam thì vấn đề xác lập quan hệ hôn nhân giữ nam và nữ khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận thì sẽ xác lập nên quan hệ vợ chồng trong hôn nhân. Khi các chủ thể xác lập bất cứ một quan hệ nào thì còn đính kèm theo đó là các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của một bên đối với bên còn lại. Trong quan hệ giữa vợ và chồng thì một nghĩa vụ không thể nào không nhắc đến đó là nghĩa vụ liên đối hay còn được gọi với thuật ngữ khác đó là trách nhiệm liên đới. Trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ liên đơn là một quy định hợp lý được ban hành để bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể là người có quyền, giúp các chủ thể này có thể thực hiện được quyền của mình một cách thuận lợi hơn so với các nghĩa vụ dân sự riêng rẽ.
Tuy nhiên, nghĩa vụ liên đơn là một trong những nghĩa vụ khá khó để các chủ thể trong quan hệ hôn nhân có thể hiểu biết hết được. Chính vì nhiều chủ thể là vợ chồng trong quan hệ hôn nhân lại chưa hiểu rõ về nghĩa vụ liên đới dẫn đến quyền lợi hợp pháp của mình bị các chủ thể khác xâm phạm. Trong nội dung bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu trách nhiệm liên đới của vợ chồng là gì và quy định về thực hiện trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm liên đới của vợ chồng
Trong quan hệ hôn nhân theo như quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và theo như cuộc sống thường ngày, khi vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng nhau đóng góp tạo nên khối tài sản chung nhất định. Với chế độ hiện nay, các cặp vợ chồng được quyền lựa chọn nhiều chế độ tài sản khác nhau, có thể không có tài sản chung hoặc phân chia tài sản chung, riêng. Tuy vậy, trong một số trường hợp thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới để đảm bảo quyền lợi của bên thứ ba.
Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về việc thực hiện nghĩa vụ liên đới như sau:
“1. Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.
Thông qua quy định cụ thể được nêu trên ta nhận thấy để quyền dân sự của các chủ thể được bảo đảm, trong một số trường hợp, nghĩa vụ nhiều người sẽ được xác định là nghĩa vụ dân sự liên đới nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Mục đích chính của việc xác định một nghĩa vụ liên đới khi có nhiều người cùng tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những người có nghĩa vụ phải cùng nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ đó theo đúng thoả thuận và quy định của pháp luật nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có quyền kể cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Cũng chính bởi vì vậy mà trong quan hệ nghĩa vụ liên đới, những người có nghĩa vụ luôn luôn liên quan với nhau trong cả quá trình thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng như quyền yêu cầu của những người có quyền luôn được coi là một thể thống nhất. Theo quy định Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới trong những trường hợp sau đây:
“Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này”
Một là, trường hợp xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng;
Hai là, trường hợp vợ chồng kinh doanh chung, khi đó giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện theo ý định, mong muốn của cả hai vợ chồng. Tài sản được sử dụng vào mục đích kinh doanh hai vợ chồng cùng phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với bên thứ ba trong quan hệ tài sản.
Ba là, trường hợp đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Trường hợp này được áp dụng khi tài sản liên quan đến nhà đất, động sản phải đăng ký…mà chỉ có tên vợ hoặc chồng, nhưng đó là tài sản chung của 2 người. Mọi giao dịch liên quan đến tài sản chung này đều do hai vợ chồng chịu trách nhiệm.
Trên cơ sở kế thừa Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Điều 27 đã quy định về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng. Theo đó, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (các nhu cầu về ăn, ở, mặc, học hành, khám, chữa bệnh – khoản 1 Điều 30).
Vợ, chồng cũng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những giao dịch khác phù hợp với những quy định về đại diện theo quy định tại các Điều 24, 25 và 26 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, Luật đã quy định cụ thể tại Điều 37 về vấn đề vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; Khi vợ chồng đồng thuận cùng nhau thực hiện giao dịch dân sự như liên quan đến tài sản chung, vay tiền, thế chấp tài sản… thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch đó.
– Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; Gia đình là tế bào cần được chăm nom, nuôi dưỡng, việc chi tiêu cho cuộc sống gia đình là cần thiết, hơn hết hôn nhân được xây dựng dựa trên mong muốn từ hai phía để tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi một bên thực hiện nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như sửa nhà, ăn uống, chăm con…thì người còn lại cũng phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó.
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; Ví dụ như trường hợp con chưa thành niên mà không có tài sản riêng gây thiệt hại và phải bồi thường thì cha mẹ cùng phải chịu trách nhiệm vì trong trường hợp này cha mẹ là người giám hộ của con.
– Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Như vậy, thực hiện nghĩa vụ liên đới là việc có nhiều người cùng thực hiện một nghĩa vụ cụ thể. Và, những người đó được gọi là người có nghĩa vụ liên đới. Tất cả các chủ thể này đều là chủ thể có nghĩa vụ. Cũng chính bởi vì vậy mà các chủ thể là người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số họ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Nếu một trong số những người có nghĩa vụ thực hiện phần nghĩa vụ của họ mà những người khác chưa thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì quan hệ nghĩa vụ giữa người đã thực hiện với người có quyền vẫn chưa được coi là chấm dứt theo quy định ủa pháp luật hiện hành. Hay hiểu một cách đơn giản hơn thì người có nghĩa vụ không những phải thực hiện phần của mình mà còn phải thực hiện thay cho người có nghĩa vụ khác khi người đó không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
2. Tư vấn trường hợp cụ thể:
Tóm tắt sự việc:
Luật sư cho tôi hỏi, vợ tôi vay tiền để làm ăn. Nhưng hiện nay, chủ nợ đến đòi tôi trả tiền nợ của cô ấy. Cho tôi hỏi nếu như vậy thì tôi có phải trả tiền cho chủ nợ hay không?
Luật sư tư vấn:
Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng cùng chung sức để đóng góp và tạo nên khối tài sản chung nhất định. Với
Tại Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm liên đới của hai vợ chồng. Cụ thể:
“1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
“2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”
Tại khoản 1, Điều 30 là trường hợp liên quan những giao dịch liên quan đến đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Những Điều 24, 25, 26 liên quan đến trường hợp đại diện giữa vợ và chồng. Riêng Điều 37 quy định về nghĩa vụ chung của vợ chồng, cụ thể:
“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”.
Như vậy, nếu trường hợp khoản vay của chị không liên quan đến những trường hợp mà pháp luật ghi nhận ở trên thì anh không có nghĩa vụ trả khoản vay mà chị đã vay.