Hiện nay, quy định về bảo vệ trẻ em nhận được rất nhiều sự quan tâm của người dân. Vậy, quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được gồm những nội dung gì? Quy định về bảo đảm chăm sóc, giáo dục được ghi nhận như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Hành vi nghiêm cấm gây ảnh hưởng đến quyền được bảo vệ trẻ em, chăm sóc và giáo dục trẻ em:
Theo pháp luật về trẻ em thì bảo vệ trẻ em được hiểu là việc áp dụng những biện pháp phù hợp để đảm bảo cuộc sống an toàn, lành mạnh; đồng thời cũng phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn và xử lý khi có bất kỳ hành vi xâm hại trẻ em; với những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì cần có hành động trợ giúp trẻ em kịp thời, nhanh chóng.
Nhà nước ta có quy định nghiêm cấm bất kỳ hành động gây ảnh hưởng xấu đến tính mạng, sức khỏe, đời sống tinh thần của trẻ em. Căn cứ theo Điều 6,
– Có hành vi nhằm tước đoạt, đe dọa tước đoạt quyền sống của trẻ em;
– Những cá nhân có trách nhiệm để nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em phải thực hiện theo đúng trách nhiệm. Nghiêm cấm việc bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em;
– Quyền bất khả xâm phạm về thân thể áp dụng cho tất cả công dân bao gồm cả trẻ em nên khi có bất kỳ hành vi xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em là đang vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật;
– Những hành vi tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn;
– Bất kỳ hành động tác động lên trẻ em như sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác;
– Trẻ em được sinh ra cũng có những quyền và bổn phận của mình nên bất kỳ ai cũng không có quyền cản trở điều này;
– Trên thực tế, khi phát hiện trẻ em bị bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nhưng cá nhân, tổ chức đó lại không cung cấp hoặc có dấu hiệu che giấu, ngăn cản cung cấp thông tin để đảm bảo quyền lợi của trẻ em;
– Quy định về không phân biệt đối xử là một trong những quy định có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo đời sống của trẻ em không chỉ về mặt sức khỏe thể chất và tinh thần. Chính vì vậy, nghiêm cấm bất kỳ hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em;
– Với đối tượng là trẻ em thì một số mặt hàng bị giới hạn để giao cho trẻ như việc bán cho trẻ em hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em;
– Trẻ em được coi như trang giấy trắng, sự hiểu biết chưa nhiều nên tiếp cận thông tin không đúng đắn dẫn đến ảnh hưởng sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Vì vậy, không được phép cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; có hành vi sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung không chuẩn mực;
– Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được tôn trọng nên việc tự ý công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em là bị pháp luật cấm;
– Cá nhân, tổ chức có mục đích xấu nhằm lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; Nhận thấy chế độ, chính sách của Nhà nước về đối tượng này mà lợi dụng để trục lợi cá nhân;
– Khu vực cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em cần đặt cách xa các cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ. Đối tượng có hành vi đặt cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em gần cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ sẽ bị xử phạt theo đúng quy định;
– Những khu vực được xây dựng để phục vụ học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em nhưng lại có hành vi lấn chiếm, sử dụng trái mục đích ban đầu;
– Khi nhận thấy trẻ em đang có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại thân thể, danh dự, nhân phẩm mặc dù có khả năng hỗ trợ nhưng từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời việc hỗ trợ.
2. Nội dung quản lý nhà nước về trẻ em:
– Nhà nước cần có những văn bản quy phạm điều chỉnh thông tin liên quan đến trẻ em. Việc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật và chỉ đạo, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về trẻ em là vô cùng cần thiết;
– Cơ quan ban ngành liên quan cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về trẻ em;
– Nhà nước cần có chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân về biện pháp, quy trình, tiêu chuẩn bảo đảm thực hiện quyền trẻ em theo quy định của pháp luật;
– Đề cao sự hiểu biết về pháp luật liên quan đến trẻ em nên việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trẻ em cần được đẩy mạnh; Ngoài ra, cần sự hỗ trợ từ truyền thông, phổ biến kiến thức, kỹ năng và vận động xã hội thực hiện quyền trẻ em;
– Những cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức, người được giao làm công tác bảo vệ trẻ em, người chăm sóc trẻ em cần được xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này trong việc bảo vệ trẻ em thực hiện quyền của trẻ em;
– Cần có những ban ngành thực hiện trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về trẻ em; Khi tiếp nhận những vụ việc khiếu nại, tố cáo thì cơ quan này cần nhanh chóng giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về trẻ em; Khi tiếp nhận những kiến nghị của trẻ em và những người liên quan thì có trách nhiệm giải quyết, đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em, người giám hộ và tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em;
– Để quản lý, xử lý kịp thời tình trạng gây ảnh hưởng đến đời sống trẻ em thì cần thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về tình hình trẻ em và việc thực hiện pháp luật về trẻ em cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Việc thực hiện quyền trẻ em còn được mở rộng, hợp tác quốc tế với mục đích để học hỏi được những quy định tiến bộ của các quốc gia với nhau.
3. Quy định về bảo đảm chăm sóc sức khỏe trẻ em:
Theo Điều 43
– Căn cứ trên thực tế về điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ thì Nhà nước đưa ra chính sách phù hợp để kịp thời hỗ trợ, bảo đảm quyền cho trẻ em về sức khỏe. Với những hoàn cảnh mà trẻ em có cuộc sống khó khăn ở địa điểm như trẻ ở trong gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì cần có quan tâm đặc biệt;
– Để đảm bảo sức khỏe cho phụ nữ mang thai thì cần có các chính sách khám sức khỏe định kỳ với họ và với trẻ em theo độ tuổi; Thiết lập chế độ chăm sóc dinh dưỡng để đảm bảo phát triển toàn diện cho trẻ cùng với đó là tiêm chủng, phòng chống tai nạn, thương tích trẻ em; Ngoài ra, những kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục đối với trẻ em là rất cần thiết để cung cấp thêm hiểu biết về vấn đề này. Điều này được thể hiện qua việc tư vấn, hỗ trợ trẻ em phù hợp với độ tuổi theo quy định;
– Những đối tượng được ưu tiên về tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng là phụ nữ mang thai, bà mẹ nuôi con dưới 36 tháng tuổi và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 36 tháng tuổi, trẻ em bị xâm hại phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ.
– Áp dụng chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh với mục đích chính là giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em;
Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em.
– Nhà nước có trách nhiệm đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế. Việc đóng bảo hiểm y tế phải đảm bảo tính phù hợp với độ tuổi, nhóm đối tượng và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ.
– Nhà nước có chính sách, biện pháp để trẻ em được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và những điều kiện vệ sinh cơ bản, bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật;
– Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
4. Quy định về việc bảo đảm giáo dục cho trẻ em:
Căn cứ theo Điều 44 Luật Trẻ em năm 2016 thì Nhà nước phải đề ra những chính sách hỗ trợ, bảo đảm quyền lợi về giáo dục cho trẻ em, như sau:
– Quyền đi học của trẻ em là quyền chính đáng của công dân nên nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học;
Với những địa điểm có nhiều khó khăn trong đời sống, sản xuất như trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn cần có sự quan tâm, hỗ trợ đặc biệt đảm bảo các em được tiếp cận giáo dục phổ cập, giáo dục hòa nhập, được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp với độ tuổi và pháp luật về lao động;
– Về lĩnh vực giáo dục cần có sự đầu tư dài hạn nên nhà nước phải đầu tư, bảo đảm công bằng về tiếp cận giáo dục của trẻ em; không có sự phân biệt hay là gây cản trở về việc hòa nhập cho trẻ em khuyết tật; Chính sách miễn, giảm học phí là nguồn động viên cho các em cố gắng theo đuổi được sự hiểu biết nên Nhà nước cũng cần hỗ trợ nhóm đối tượng này phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ;
– Trong môi trường học tập thì nhưng chương trình, nội dung giáo dục được xây dựng phải phù hợp với từng độ tuổi, từng nhóm đối tượng trẻ em, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện và yêu cầu hội nhập;
Không chỉ giáo dục trẻ những kiến thức trên sách vở mà còn cần truyền tinh thần cho trẻ em về giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và phát triển nhân cách, kỹ năng sống, tài năng, năng khiếu của trẻ em; Kiến thức về giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho trẻ em cũng cần được quan tâm, chú trọng;
– Môi trường giáo dục phải được xây dựng một cách an toàn, lành mạnh, thân thiện, có những quy định, xử lý kịp thời để phòng, chống bạo lực học đường;
– Giaos dục mầm non cho trẻ 05 tuổi và chính sách hỗ trợ cần căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ; Đồng thời có chính sách khuyến khích, thu hút các nguồn đầu tư khác để phát triển giáo dục, đào tạo.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
Luật trẻ em năm 2016.