Quan Hoàng Năm là vị Quan Hoàng thứ năm trong Tứ Phủ Quan Hoàng. Có ý kiến cho rằng Quan Hoàng Năm giáng trần là hiện thân thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất. Vậy Quan Hoàng Năm là ai? Sự tích và đền thờ Ông Hoàng Năm? Để hiểu rõ về vấn đề này, bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn giải đáp được những thắc mắc này.
Mục lục bài viết
1. Quan Hoàng Năm là ai?
Quan Hoàng Năm còn được gọi với cái tên là Quan Hoàng Ngũ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, Ngài là vị Quan Hoàng thứ năm thuộc hàng Tứ phủ Quan Hoàng. Rất ít người biết về Quan Hoàng Năm bởi ngài rất ít giáng đồng. Các đền phủ thờ phụng Quan Hoàng Năm cũng rất ít.
Quan Hoàng Năm còn được xem là một viên tướng của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Sau này, Quan Hoàng Năm được xem là người con của Vua Cha khi ngự trong Tứ Phủ.
Quan Hoàng Năm được coi là giáng thế làm Tướng quân Hoàng Công Chất vào thời gian nào cũng chưa có tài liệu nào nhắc đến. Tướng quân Hoàng Công Chất ở cùng thời điểm với thời Thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu – Quan Hoàng Tư Thủy Phủ.
2. Sự tích Quan Hoàng Năm:
Quan Hoàng Năm không giáng thế do vậy không có sự tích gì về ngài và ngài cũng không có đến thờ riêng. Nhiệm vụ của Ngài trên thiên cung thế nào cũng không có ai biết rõ được và cũng không có ai biết Ngài có thể phù hộ được những điều gì cho nhân gian. Đó là tất cả những điều mà các cụ đồng cựu truyền lại. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người nói rằng Ngài có giáng trần và làm Tướng Quân Hoàng Công Chất.
3. Tướng quân Hoàng Công Chất:
Quan Hoàng Năm được hạ sinh ở Thái Bình và được làm tướng quân dưới triều nhà Lê. Theo Minh đô sử nói rằng, vào năm 1739, hai tướng Hoàng Công Chất và thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu theo chân của Nguyễn Cừ đã dấy binh khởi nghĩa. Sau khi Nguyễn Cừ thất bại, tướng quân Hoàng Công Chất triệu tập lực lượng riêng biệt và hoạt động ở Sơn Nam, có khi ngài hợp với quân của Nguyễn Hữu Cầu và đại bại. Quân khởi nghĩa rất giỏi về thuỷ chiến, khi ra vào những nơi có cỏ rậm bùn lầy nhưng không để lại một chút dấu vết. Năm 1740, chúa Trịnh cử hai tướng Phạm Trần Tông và Hoàng Công Kỳ đem quân ra đánh Hoàng Công Chất ở Công An nhưng thất bại.
Năm 1743, bị quân lính Trương Nhiêu bao vây, Hoàng Công Chất chống cự thành công, buộc quân triều đình phải rút về. Đến cuối năm, vì muốn Hoàng Công Chất về yết kiến nên chúa Trịnh Doanh sai sứ đi chiêu an. Nhưng bị ông cự tuyệt và ông chiếm giữ phủ Khoái Châu ở Hưng Yên. Không được như ý mình, chúa Trịnh bèn điều đại quân đi dẹp, tướng lĩnh đứng đầu là Đinh Văn Giai. Mặc dù thất bại nặng nề ở Đỗ Xá nhưng quân khởi nghĩa vẫn giữ được Khoái Châu.
Năm 1745, trấn thủ Sơn Nam và Hoàng Công Kỳ bị quân khởi nghĩa tập kích bắt và bắt giết. Hoàng Công Chất liền phối hợp với quan khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và mang quân đánh phá các huyện lân cận. Đến năm 1750, Hoàng Công Chất tiếp tục liên kết với Thành – một thủ lĩnh khởi nghĩa ở giáp biên giới Vân Nam, Trung Quốc. Điều này làm cho quân triều đình do Đinh Văn Thản thống lĩnh tới không thể dẹp nổi. Vào năm 1751, Lê Đình Châu được cử lên thay vị trí của Đinh Văn Thản vì đã chết. Đến tháng 6 năm 1751, Hoàng Công Chất và Thành bị đánh bại bởi Lê Đình Châu. Sau đó Thành bị bắt giữ, còn Hoàng Công Chất phải rút lên động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, ngày nay thuộc Mường Thanh Điện Biên, để xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài. Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn làm đại bản doanh, thành này do người Lự đã xây dựng trước đó, hay còn gọi là Sam Mứn theo tiếng Thái. Thành đó có tên là Tam Vạn do tương truyền là trong thành có thể chứa 3 vạn quân, hoặc có 3 vạn cối giã gạo.
Hoàng Công Chất đã xây thành Bản Phủ làm căn cứ vì ông nhận thấy thành Tam Vạn có vị trí địa thế bất lợi cho quân mình. Ở đây ông rất được lòng dân bản địa. Ông đánh tan những giặc cướp, lực lượng quân khởi nghĩa được phát triển ra khắp miền Tây Bắc và ở các châu mường ông lôi kéo những người đứng đầu gia nhập, chia ruộng đất cho dân nghèo. Ngoài người Kinh thì quân khởi nghĩa của Hoàng Công Chất còn có cả dân tộc thiểu số. Với ý tôn kính, ở đây người ta gọi ông là Then Chất, hoặc là Thiên Chết theo tiếng Thái. Ông còn được gọi là vua Hoàng trong sử người Thái ở Tây Bắc. Ông có các tướng dưới quyền nổi danh như: Bun Xao, Cầm Phẳn, Khanh, cha con Cầm Tom, anh em Ngải, Cầm Phanh.
Có thời gian quân của Hoàng Công Chất và lực lượng khởi nghĩa của hoàng thân Lê Duy Mật phối hợp với nhau. Phạm vi của ông là từ Tuần Giáo, Điện Biên trở lên, phạm vi thuộc quyền của Lê Duy Mật là ở phía nam từ Mộc Châu tới Văn Chấn. Quân khởi nghĩa đánh ra xung quanh từ động Mãnh Thiên và đã làm chủ 10 châu Yên Tây, thuộc địa bàn Lai Châu ngày nay và một phần Vân Nam thuộc Trung Quốc. Vào cuối năm 1767, ông đánh chiếm từ Yên Tây xuống châu Mộc Sơn La, đánh xuống châu Mai Hoà Bình, sau đó ông chia quân tiến xuống vùng thượng du Thanh Hóa. Sau khi nghe cáo cấp của các trấn thủ Thanh Hóa, Hưng Hoá, thì các tướng Trịnh Phưởng, Đinh Văn Phục, Hoàng Đình Thể được chúa Trịnh Sâm huy động để mang quân đi đánh. Vì thua nê quân khởi nghĩa của Hoàng Công Chất phải chạy vào Xa Hổ và Nậm Ban.
Đến tháng 2 năm 1768, Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu được chúa Trịnh Sâm cử mang quân đi Mường Thanh đánh. Khi nghe được tin này Lê Duy Mật đã điều quân đi cứu ứng cho Hoàng Công Chất. Vì sợ không dám tiến nên Nguyễn Đình Huấn phải đem quân rút về. Quân của Nguyễn Đình Huấn được Trịnh Sâm giao cho Đoàn Nguyễn Thục tiến đánh thẳng vào Mường Thanh bằng nhiều cánh. Chiến sự đang trong lúc căng thẳng thì Hoàng Công Chất qua đời vì lâm bệnh nặng.
Hoàng Công Toản là con của Hoàng Công Chất tiếp tục cầm quân chống lại nhà Lê Trịnh. Vào đầu năm 1769, tại Nậm Cô Hoàng Công Toản đã đặt phục binh để đón đánh quân Trịnh nhưng sau đó bị thất bại. Một mặt Nguyễn Phục đánh ở Nậm Cô, mặt khác ông điều binh lính sang đánh úp và đốt căn cứ thành Bản Phủ. Hoàng Công Toản chạy về thì thấy thành Bản Phủ đã mất bèn chạy bỏ trốn. Trong tài liệu sách Đại Nam nhất thống chỉ ghi chép rằng Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam, còn dựa theo Minh đô sử thì Hoàng Công Toản chạy vào Trấn Ninh. Bên cạnh đó, cũng có tài liệu cho rằng Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam, sau đó ông được an sáp ở Ô Lỗ Mộc Tề (Tân Cương).
Cuộc khởi nghĩa của tướng quân Hoàng Công Chất thất bại, nhưng Ngài vẫn là một vị lãnh tụ nông dân kiệt xuất, đã dựng cờ khởi nghĩa nhằm chống lại triều đình nhà Lê Trịnh để cứu giúp những người dân nghèo với nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt trừ loại bỏ bọn cường hào ác bá, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Với mong muốn xoá bỏ được sự bất công trong xã hội, lập lại kỷ cương, phục hưng cho giang sớn, đất nước được hoà bình thống nhất, thái bình được thịnh trị. Ngày nay, nơi thờ chính của tướng quan Hoàng Công Chất cùng với 6 viên tướng nổi tiếng của Ngài đang được thờ phụng tại di tích thành Bản Phủ cũ tại thôn Noọng Nhai, xã Noọng Hẹt, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Hầu giá Quan Hoàng Năm:
Quan Hoàng Năm rất ít khi ngự đồng, nếu khi ngự đồng thì Ngài mặc trang phục màu xanh ngọc có thêu rồng uốn thành hình chữ thọ, trên đầu ngài chít khăn mỏ rìu hoặc đi nét xanh, mạng chéo, đi ghệt tay ghệt chân, múa ké. Lễ khai quang kết thúc, Ngài ngự tọa, hiến tửu, nghe văn sau đó xe giá.
5. Đền thờ Hoàng Công Chất:
Có ý kiến nói rằng vì Quan Hoàng Năm không giáng trần nên ngài không có đền thờ chính. Nhưng cũng có ý kiến nói rằng Quan Hoàng Năm giáng trần chính là hiện thân thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất và đền thờ Hoàng Công Chất cũng chính là đền thờ của Quan Hoàng Năm tại thành Bản Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đền thờ Hoàng Công Chất toạ lạc ở trung tâm thành Chiềng Lê (Bản Phủ) thờ phụng họ Hoàng và 6 thủ lĩnh nghĩa quân. Người dân đã tưởng nhớ công lao to lớn của tướng quân Hoàng Công Chất – người con của Thái Bình trong cuộc chiến giải phóng Mường Thanh (Mường Then) ở tỉnh Điện Biên khỏi giặc Phẻ, bảo vệ bản Mường đã lập ra đền thờ Hoàng Công Chất – một di tích lịch sử văn hóa rất quan trọng.
Ngày hội tại ngôi đền này được diễn ra từ ngày 24 đến ngày 25 tháng 2 âm lịch.
Ngày nay, di tích Thành Bản Phủ – đền Hoàng Công Chất đã trở thành một địa điểm văn hóa, nghệ thuật, tâm linh rất quan trọng của người dân tỉnh Điện Biên, bên cạnh đó đây cũng là một địa điểm thu hút nhiều du khách du lịch.