Luật quốc tế khác với các hệ thống pháp luật dựa trên nhà nước ở chỗ nó chủ yếu - mặc dù không dành riêng - áp dụng cho các quốc gia, chứ không phải cho các cá nhân và hoạt động chủ yếu thông qua sự đồng ý. Vậy quan hệ pháp luật quốc tế là gì? Chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế là gì?
Mục lục bài viết
1. Quan hệ pháp luật quốc tế là gì?
Luật quốc tế, còn được gọi là Đạo đức quốc tế, luật quốc tế công cộng và luật của các quốc gia, là tập hợp các quy tắc, chuẩn mực và tiêu chuẩn thường được công nhận là ràng buộc giữa các quốc gia. Nó thiết lập các hướng dẫn quy phạm và một khuôn khổ khái niệm chung cho các quốc gia trên nhiều lĩnh vực, bao gồm chiến tranh, ngoại giao, thương mại và nhân quyền. Luật quốc tế nhằm thúc đẩy việc thực hành các quan hệ quốc tế ổn định, nhất quán và có tổ chức.
Các nguồn của luật quốc tế bao gồm tập quán quốc tế (tập quán quốc gia chung được chấp nhận là luật), các điều ước và các nguyên tắc chung của luật được hầu hết các hệ thống luật quốc gia thừa nhận. Luật quốc tế cũng có thể được phản ánh trong tính hợp tác quốc tế, các tập quán và phong tục mà các quốc gia áp dụng để duy trì quan hệ tốt đẹp và sự công nhận lẫn nhau, chẳng hạn như chào cờ của tàu nước ngoài hoặc thi hành phán quyết pháp lý của nước ngoài.
Quan hệ pháp luật quốc tế tham gia vào liên lạc trực tiếp và đàm phán ở cấp độ hành chính và kỹ thuật với các quốc gia nước ngoài để thúc đẩy hợp tác pháp lý quốc tế và để có thể ký kết các hiệp định dẫn độ và tương trợ tư pháp. Luật quốc tế khác với các hệ thống pháp luật dựa trên nhà nước ở chỗ nó chủ yếu được áp dụng cho các quốc gia hơn là cho các công dân tư nhân. Luật quốc gia có thể trở thành luật quốc tế khi các hiệp ước giao quyền tài phán quốc gia cho các
Cơ quan to lớn tạo nên luật quốc tế bao gồm một tập hợp các tập quán quốc tế; các thỏa thuận; hiệp ước; hiệp định, điều lệ, tiền lệ pháp của Tòa án Công lý Quốc tế (hay còn gọi là Tòa án Thế giới); và hơn thế nữa. Không có một thực thể quản lý và thực thi duy nhất, luật quốc tế chủ yếu là nỗ lực tự nguyện, trong đó quyền lực thực thi chỉ tồn tại khi các bên đồng ý tuân thủ và tuân theo một thỏa thuận. Đây là nơi IR xuất hiện; nó cố gắng giải thích hành vi xảy ra qua ranh giới của các quốc gia, các mối quan hệ rộng hơn mà hành vi đó là một phần, và các thể chế (tư nhân, nhà nước, phi chính phủ và liên chính phủ) giám sát các tương tác đó. Các giải thích cũng có thể được tìm thấy trong các mối quan hệ giữa và giữa các bên tham gia, trong các thỏa thuận liên chính phủ giữa các quốc gia, trong hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia, hoặc trong việc phân phối quyền lực và kiểm soát trên thế giới như một hệ thống duy nhất.
2. Chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế là gì?
Thực thể đang tham gia vào những quan hệ pháp luật quốc tế được nhận định là chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi của chính nó gây ra.
Chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế gồm chủ thể cơ bản và các chủ thể khác của quan hệ pháp luật quốc tế.
Quốc gia được thừa nhận là chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế điều này được thừa nhận dựa trên đa số các luật quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay thì một số học giả khác cho rằng, chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế ngoài quốc gia, thì các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, các tố chức quốc tế liên chính phủ đều là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế hiện đại.
Trên cơ sở quy định tại Điều 1 của Công ước Môngtêviđêô (Montevideo) năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia, thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn điều kiện cơ bản sau: dân cư thường xuyên; lãnh thổ được xác định; Chính phủ; năng lực tham gia vào các quan hệ pháp luật với các thực thể quốc gia khác. Do vậy, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, người ta thường dựa vào các tiêu chí đó để lập luận việc công nhận hoặc không công nhận một ẩm thực thể mới được thành lập là quốc gia hay không không phải là quốc gia.
Những thuộc tính cơ bản của quốc gia được nhận định là chủ qyền quốc gia, là phạm trù pháp lí – kinh tế có liên hệ mật thiết với vấn đề độc lập về kinh tế. Kết quả củng cố chủ quyền của một quốc gia được bắt nguồn từ việc củng cố hạ tầng cơ sở kinh tế của quốc gia đó. Ngược lại, sự bành trướng của tư bản nước ngoài trong một nước nào đó, trong một mức độ nhất định sẽ tạo ra những cản trở đối với việc thực hiện chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ, riêng biệt của quốc gia đó.
3. Những quan hệ pháp luật nào đã phát sinh trong vụ việc nêu trên?
Năm 1985, mật vụ Pháp đã đánh chim tàu Rainbow Warrior của tổ chức Greenpeace (một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực môi trường), khi tàu này đang đậu trong cảng Auckland của New Zealand làm một thủy thủ trên tàu bị chết. Ngay sau đó, hai mật vụ Pháp đã bị New Zealand bắt giữ, buộc tội và kết án 10 năm tù. Pháp đã yêu cầu New Zealand thả các mật vụ; ngược lại New Zealand yêu cầu Pháp bồi thường thiệt hại.
Để dàn xếp tranh chấp, hai bên đã đề nghị Tổng thư kí Liên hợp quốc đứng ra làm trung gian hòa giải. Với sự chứng kiến của Tổng thư ký Liên hợp quốc Pháp và New Zealand đã ý một thỏa thuận theo Pháp cam kết sẽ bồi thường 7 triệu USD cho New Zealand, đổi lại New Zealand sẽ chuyển giao hai mật vụ Pháp để đưa đến một căn cứ quân sự của Pháp trên đảo Hao của Thái Bình Dương trong khoảng thời gian ít nhất là 3 năm.
Cũng theo thỏa thuận, hai mật vụ này chỉ được rời khỏi đảo khi có sự đồng ý của hai quốc gia. Tuy nhiên, trước khi thời hạn 3 năm kết thúc, Pháp đã cho các mật vụ trên rời đải Hao mà không có sự đồng ý của New Zealand. Hãy cho biết:
Hỏi:
Những quan hệ pháp luật nào đã phát sinh trong vụ việc nêu trên? Trong số đó, quan hệ pháp luật nào thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế? Vì sao?
***
Những quan hệ pháp luật nào đã phát sinh trong vụ việc nêu trên? Trong số đó, quan hệ pháp luật nào thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế? Vì sao?
Trong tình huống trên có những quan hệ pháp luật phát sinh gồm: Quan hệ giữa Pháp – New Zealand, mật vụ Pháp(công dân P) – tổ chức Greenpeace, mật vụ Pháp – New Zealand. Tuy nhiên, không phải tất cả các quan hệ đó đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế. Để có thể khẳng định được quan hệ nào là đối tượng điều chỉnh thì cần nhận biết được những dấu hiệu cơ bản của chủ thể Luật Quốc tế. Trước hết có thể khẳng định quan hệ giữa Pháp – New Zealand thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế.
Việc xác định đúng đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế là quan trọng và cùng với đó có thể áp dụng được các quy định một cách đúng đắn, bảo đảm quyền lợi của các chủ thể. Chủ thể của Luật Quốc tế phải thỏa mãn các điều kiện về dấu hiệu cơ bản như sau: “Có sự tham gia một cách độc lập vào các quan hệ do Luật Quốc tế không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể khác; Có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác; Có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi của mình gây ra.”
Như vậy, chủ thể của Luật Quốc tế là thực thể đang tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ quốc tế và có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do chính hành vi của chủ thể gây ra. Vậy, dựa trên các dấu hiệu trên thì có thể xác định chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm: Quốc gia, dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết, tổ chức quốc tế liên chính phủ và một số chủ thể đặc biệt khác như Tòa thánh Vaticăng, vùng lãnh thổ.
Các cá nhân, tập đoàn xuyên quốc gia và các tổ chức phi chính phủ có thể tham gia vào một số quan hệ do Luật Quốc tế điều chỉnh nhưng các thực thể này không phải là chủ thể của Luật Quốc tế, bởi chúng không có ý chí độc lập khi tham gia quan hệ. Quá trình cá thực thể này tham gia quan hệ quốc tế phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia.
Ngoài ra, các cá nhân, tập đoàn xuyên quốc gia và tổ chức phi chính phủ…cũng không có quyền và nghĩa vụ riêng biệt theo quy định của Luật Quốc tế và khi các thực thể này có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế gây thiệt hại cho chủ thể của Luật Quốc tế thì chúng không thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế một cách độc lập.