Con cái ra đời cần có sự yêu thương chăm sóc của cha mẹ, ông bà. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, dạy dỗ con cháu nên người và ngược lại, con cái phải biết ơn, kính trọng cha mẹ ... Trong xã hội phong kiến, tư tưởng nho giáo đặt chữ hiếu ở hàng thứ hai sau chữ trung.
Mục lục bài viết
1. Quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con:
a) Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con:
Như chúng ta đã biết, hôn nhân trong xã hội phong kiến Việt Nam – dù cho cha mẹ sắp đặt hay tự do lựa chọn– cũng được gắn chặt với sự bảo tồn lâu dài nòi giống. Con cái ra đời đòi hỏi sự yêu thương chăm sóc của cha mẹ, ông bà. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, dạy dỗ con cháu nên người và ngược lại, con cái phải biết ơn, kính trọng cha mẹ ... . Trong xã hội phong kiến, tư tưởng nho giáo đặt chữ hiếu ở hàng thứ hai sau chữ trung (trong quan hệ vua tôi). Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định việc bất hiếu của con cái được coi là một trong mười tội ác (thập ác). Điều này được thể hiện tại Điều 2 QTHL và Điều 2 HVLL, trong đó hành động bất hiếu bao gồm:
– Tố cáo hay chửi mắng ông bà, cha mẹ; – Không tuân theo lời dạy bảo của cha mẹ, – Không săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ; – Kết hôn trong thời kỳ để tang cha mẹ; – Ông bà, cha mẹ chết mà dấu không cử người tổ chức tang lễ; – Nói dối là ông bà, cha mẹ đã chết.
Từ đó, pháp luật cũng quy định những hình phạt cụ thể trong từng trường hợp con cái bất hiếu với cha mẹ, ông bà. Nếu con cái trái lời dạy bảo hay chăm sóc ông bà, cha mẹ không được chu đáo sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc (Điều 506 QTHL và Điều 307 HVLL). Cụ thể, Điều 506 QTHL: Con cháu trái lời dạy bảo, và không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà cha mẹ trình lên quan, thì xử tội đồ làm khao đinh, con nuôi, con kế tự mà mà thất hiếu với cha nuôi, cha kế thì xử giảm tội trên một bậc. Theo Điều 507 QTHL, dù ông bà cha mẹ không thưa quan nhưng nếu con cháu lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu ngoài châu thành, đánh thì xử lưu châu sa, đánh bị thương thì xử tội giảo. HVLL cũng quy định rất cụ thể: Điều 307 quy định: Phàm con cháu vi phạm giáo lệnh của ông bà, cha mẹ và phụng dưỡng có khiếm khuyết thì bị xử phạt một trăm trượng. Việc thoái thác trách nhiệm phụng dưỡng cũng sẽ bị xử phạt.
Trên cơ sở làm con giữ đạo hiếu, pháp luật phong kiến Việt Nam còn cho phép con cái có quyền báo thù cho cha mẹ miễn là hành động đó không được đe dọa nghiêm trọng tới trật tự xã hội và địa vị của nhà vua. Điều 485 QTHL quy định: Ông bà, cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà không bị què gãy, bị thương thì không phải tội; bị thương què thì phải tội kém tội đánh bị thương người thường ba bậc; đánh chết thì bị tội nhẹ hơn luật thường một bậc. Theo quan điểm Nho giáo, việc trả thù cho cha mẹ, ông bà thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu và trong hoàn cảnh xã hội thời Lê lúc đó được coi là phù hợp với đạo đức.
Mặt khác, pháp luật có những quy định tạo điều kiện cho con cháu báo hiếu ông bà, cha mẹ. Điều 38 QTHL cho phép con, cháu được chịu tội thay cho ông bà, cha mẹ trong trường hợp ông bà, cha mẹ bị phạt roi hay trượng. Điều 14 HVLL cũng quy định trường hợp ông bà, cha mẹ bị tù tội, lưu đày đi xa thì con cái phải đi theo. Điều 17 HVLL còn quy định cho con cháu được giảm nhẹ hình phạt để sớm về nhà phụng dưỡng cha mẹ già yếu bệnh tật. Điều này thể hiện rất rõ ưu thế của hiếu đạo, ngay cả khi giữa hiếu đạo và pháp luật có xung đột thì hiếu đạo vẫn được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người. Tuy nhiên, con cháu chịu tội thay ông bà, cha mẹ thì HVLL không cho phép. Cho thấy điểm khác biệt trong quy định của QTHL và HVLL.
Để duy trì sự thuận hiếu trong gia đình, giữ gìn đạo lý phong kiến trong xã hội, pháp luật phong kiến Việt Nam không cho phép con cháu tố cáo, kiện cáo ông bà, cha mẹ. Theo Điều 504 QTHL, con cháu tố cáo ông bà cha mẹ đều xử tội lưu đi châu sa, trừ ngoại lệ cho phép con cháu được tố cáo khi ông bà, cha mẹ phạm tội mưu phản, đại nghịch, xâm phạm đến quyền lợi của nhà vua. Bên cạnh đó, con cháu không được kiện cáo ông bà, cha mẹ ngay cả trong trường hợp những người bề trên đó của mình có lỗi, nếu vi phạm đều bị xử biếm một tư, nếu lí lẽ trái thì xử thêm một bậc. Điều 31 và Điều 306 HVLL cũng quy định con cái không được thưa kiện, tố cáo tội của ông bà cha mẹ mà phải che dấu trừ một số tội như phản nghịch hoặc mẹ giết cha, cha giết mẹ.
Đạo đức buộc con cháu phải có nghĩa vụ để tang ông bà, cha mẹ. Điều 2 QTHL và HVLL đều quy định có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường, nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu không tổ chức tang lễ, nói dối ông bà cha mẹ đã chết thì đều rơi vào tội bất hiếu. Nếu như vi phạm thì đều bị xử phạt rất nặng. Điều 130 và Điều 543 QTHL quy định cụ thể, cha mẹ chết mà không để lại tang, có tang ông bà cha mẹ mà không khóc thì đều phải tội đồ làm khao đinh, đàn bà làm tang thất phụ, trong khi có tang mà bỏ đồ tang mặc đồ thường hoặc vui chơi đàn hát thì biếm 2 tư, gặp đàn hát mà nghe hoặc dự vào những tiệc vui mừng thì đều bị phạt 80 trượng. Điều 160 HVLL cũng quy định: Phàm nghe tang cha mẹ (nếu cháu nội thì cùng nhận trách nhiệm nặng khác cha), hay chồng chết mà giấu im không tổ chức tang lễ thì phạt 60 trượng, khép tội đồ 1 năm. Trong thời gian để tang mà tổ chức cưới hỏi, vui chơi hay ăn mặc như thường đều bị xử tội (Điều 98 HVLL).
Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ của con cái đối với ông bà, cha mẹ thì ông bà, cha mẹ cũng có những quyền và nghĩa vụ đối với con cái: QTHL quy định cha mẹ có quyền quyết định chỗ ở của con cái, có quyền và nghĩa vụ nuôi dạy con cái, quyền quyết định hôn nhân cho con cái, quyền từ con nếu con cái bất hiếu. Con cái phạm tội, cha mẹ phải liên đới chịu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại (Điều 457).
HVLL cũng quy định các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái như: nuôi dưỡng, giáo dục, quyết định việc ăn ở, chia tách hộ khẩu, quyết định hôn nhân của con cái với tư cách chủ hôn (Điều 82, Điều 109), quyền thưa kiện con cháu (Điều 82, Điều 83). Trường hợp cha mẹ đánh con nếu con không què gãy hoặc không có tố cáo, thì luật pháp không can thiệp. Tuy nhiên, cả hai Bộ luật: QTHL và HVLL đều không quy định quyền giết con của cha mẹ.
Như vậy, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình phong kiến Việt Nam là mối quan hệ lệ thuộc và phục tùng của con cái đối với cha mẹ. Trong đó bổn phận của con đối với cha mẹ là rất lớn.
b) Quan hệ tài sản giữa cha mẹ và con:
* Quan hệ tài sản giữa cha mẹ và con khi cha mẹ còn sống
Theo quy định của pháp luật phong kiến thì cha, mẹ với tư cách gia trưởng giữ quyền làm chủ toàn bộ tài sản trong gia đình, con cái không có quyền hành gì với tài sản của gia đình và sống hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của cha mẹ. Điều 378 QTHL quy định: Khi cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản thì con trai bị xử phạt 60 trượng, biếm hai tư, con gái bị xử phạt 50 roi, biếm một tư, phải trả nguyên tiền cho người mua, điền sản trả cha mẹ.... Tuy nhiên, con cái cũng có tài sản riêng đó là tài sản do chứng tự kiếm được từ lao động của mình, cha mẹ cũng như các bậc bề trên phải tôn trọng quyền sở hữu tài sản cá nhân của con, cháu. Điều 82 HVLL cũng quy định: Phàm là ông bà cha mẹ hãy còn sống mà con cháu tách hộ để phân chia tài sản, thì xử đánh 100 trượng (cần phải do ông bà cha mẹ tự tố cáo mới bắt tội. Như vậy, khi cha mẹ còn sống thì tài sản trong gia đình thuộc sự quản lý của cha mẹ.
* Quan hệ tài sản giữa cha mẹ và con khi cha mẹ đã chết
Quan hệ tài sản giữa cha mẹ và con cái khi cha mẹ đã chết được thể hiện thông qua các quy định về thừa kế. Căn cứ vào mục đích chính của thừa kế có thể chia thành hai loại là thừa kế tự sản (thừa kế hương hỏa) và thừa kế thông thường.
Tự sản là tài sản được dùng vào việc thờ cúng dòng họ tổ tiên. Pháp luật thừa kế về chế định hương hóa trong QTHL và HVLL có nhiều điểm tương đồng. Theo quan niệm của xã hội phong kiến, người con trai trưởng có nghĩa vụ và bổn phận thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Vì vậy, QTHL quy định khi cha mẹ chết, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em, chị em tự chia nhau thì lấy 1/20 số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho con trai trưởng giữ; còn lại thì chia đều. Nếu cha mẹ có chức thư thì phần ruộng đất hương hỏa được xác định theo chúc thư (Điều 388 QTHL). Hơn nữa, việc thừa kế ruộng đất hương hỏa được quy định rất cụ thể: ruộng hương hỏa trước hết phải giao cho con trai trưởng của người vợ cả, nếu con trưởng chết trước thì mới lấy người cháu trưởng, nếu không có người cháu trưởng thì mới lấy người con thứ. Nếu người vợ cả không có con khác thì mới chọn lấy người con nào tốt của người vợ lẽ. Nếu người con trưởng có tật hay hư hỏng không thể thờ cúng được thì phải trình quan sở tại để chọn con khác thay. Nếu trái luật thì sẽ khép vào tội bất hiếu bất mục trái bỏ điển lễ (Điều 389 QTHL).
Điều này cũng được quy định tương tự trong HVLL. Theo Điều 76 HVLL, việc lập đích tử (người nhận hương hỏa và thừa tự) phải tuân theo nguyên tắc về việc tập ấm. Trước hết phải chọn trưởng nam trong các con của vợ cả. Chỉ có thể chọn con thứ của người vợ cả nếu người con trưởng bị ngăn cản. Nếu người vợ cả quá 50 tuổi mà không có con trai thì mới được phép lập con trưởng của người vợ thứ. Trong trường hợp người chết không có con cháu, người thân thuộc muốn được hưởng phần thương hỏa thì phải hội đủ các điều kiện: đồng tông (Điều 76 HVLL) theo lệ Chiêu mục tương tương, không là con một trong gia đình và không có hiềm khích với người được lập hương hỏa. Khi một gia đình tuyệt tự, không còn ai trong họ có thể kế tự thì con gái của người chết có thể được nhận thừa kế.
Sau khi phân chia hương hỏa, số điền sản được chia cho các con không phân biệt trai gái. Điều 83 lệ 1 HVLL quy định: Khi phân chia gia tài, điền sản thì không cần biết là thê thiếp nô sinh mà chỉ phải chia đều cho số con. QTHL cũng quy định số điền sản còn lại được chia cho các con không phân biệt con của vợ cả, vợ lẽ, con nuôi. Nhưng không chia đều mà chia như sau: các con của vợ cả được chia phần hơn và đều nhau không phân biệt trai gái, các con của vợ lẽ và của nàng hầu được chia phần kém hơn các con của vợ cả, các phần đều nhau không phân biệt trai gái.
Điều 380 QTHL còn quy định con nuôi sẽ được 1/3 điền sản (nếu trong giấy của con nuôi có ghi là sẽ cho điền sản). Nếu cha mẹ không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả, thuở bé không cùng ở thì con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần. Điều 76 Lê 4 HVLL cũng quy định con nuôi được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi trong trường hợp:
Phàm người khác họ đi làm nghĩa tử rồi lại tình nguyện quy tông, thì không được mang theo những của cải mà cha mẹ nuôi chia cho.
Trường hợp đứa con trai bị bỏ hoang từ 3 tuổi trở xuống, vẫn y theo luật cho theo họ mình, chỉ không cho kế tự dù rằng mình không có con trai, nhưng vẫn châm chước chia cho tài sản. Không bắt buộc phải quy tông .
2. Quy định về quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình:
Ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ vợ chồng và quan hệ cha mẹ con, QTHL và HVLL còn có các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa các thân thuộc khác trong gia đình như quan hệ giữa các thành viên với người tôn trưởng, quan hệ nuôi con nuôi, quan hệ giữa vợ cả và vợ lẽ....
* Quan hệ nuôi con nuôi
Trong xã hội phong kiến, việc nuôi con nuôi là hiện tượng tương đối phổ biến. Sự việc này làm nảy sinh một loại quan hệ trong gia đình, quan hệ giữa người con nuôi với cha mẹ nuôi và các thành viên khác trong gia đình. Bởi vậy nhà làm luật đã dành một số điều khoản điều chỉnh về quan hệ này.
Điều 380 QTHL quy định về mặt hình thức việc nhận con nuôi phải làm văn tự (khế ước nghĩa dưỡng) giữa cha mẹ nuôi dưỡng phụ, dưỡng mẫu) và cha mẹ sinh ra đứa trẻ. Trong văn tự phải ghi rõ có cho con nuôi hưởng điền sản hay không. Nếu cha mẹ nuôi chết mà không có chúc thư thì người trưởng họ chia điền sản thành ba, con đẻ được 2 phần, con nuôi được một phần; nếu không có con đẻ mà con nuôi ở với cha mẹ nuôi từ bé thì con nuôi được hưởng cả, thuở bé không ở cùng cha mẹ nuôi thì con nuôi được hưởng 2 phần, người thờ tự được hưởng 1 phần. Đồng thời, người con nuôi cũng có các nghĩa vụ với cha mẹ nuôi như cha mẹ đẻ, tuy trong một số trường hợp, nếu con nuôi vi phạm nghĩa vụ với cha mẹ nuôi thì sẽ bị xử phạt nhẹ hơn con đẻ. Theo Điều 506, con nuôi mà thất hiếu với cha mẹ nuôi thì bị xử giảm tội một bậc so với con đẻ.
HVLL triều Nguyễn cũng quy định các trường hợp nhận con nuôi, bao gồm con lập tự, con nghĩa tử và con nhặt được. (Điều 76 HVLL)
Con lập tự: trong trường hợp nuôi con nuôi để lập tự luật quy định phải là một người con trai trong họ. Cha mẹ toàn quyền quyết định việc lựa chọn con lập tự. con lập tự có quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi như con đẻ, có quyền thừa kế tài sản và có nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên của cha mẹ nuôi.
Con nghĩa tử: là con nuôi cùng họ hoặc khác họ. HVLL quy định một số điểm như sau: con nuôi có quyền sống tại nhà của cha mẹ nuôi, có thể được chia gia sản nhưng không được đưa về bản tông, con nuôi không được kiện lên quan đòi chia riêng của cải, người trong họ hàng không được ép buộc con nuôi trở về bản tông để chiếm đoạt tài sản (Điều 76).
Con nhặt được: HVLL có một số quy định sau: nhặt được con rơi dưới 3 tuổi có thể để làm con nuôi nhưng phải đưa đến quan tri nhận lãnh. Có thể nuôi con trai hoặc con gái, cho phép nuôi theo họ của nó. Nếu có cha mẹ đẻ thì phải được cha mẹ đẻ ưng thuận. trẻ dưới 3 tuổi nhặt nuôi có thể mang họ của cha mẹ nuôi nhưng không được lập tự vì là con ngoài huyết thống, con nuôi không có nghĩa vụ phải mang họ của cha mẹ nuôi.
Phần tỉ dẫn điều luật có quy định một số chế tài đối với những hành vi xâm hại giữa cha mẹ nuôi đối với con nuôi, chủ yếu gồm 6 trường hợp: 1) Giết con nuôi xử nặng hơn con đẻ, áp dụng tương tự như giết con của anh em; 2) Con nuôi mưu giết anh em của cha nuôi xử chém, đã giết thì xử lục thi; 3) Con nuôi mắng cha mẹ của cha nuôi xử chém, đã giết thì xử lục thi; 4) Gian dâm với con gái nuôi của vợ xử 100 trường đồ 3 năm. Cưỡng gian xử chém; 5) Gian dâm với con gái nuôi xử 100 trường đồ 3 năm; 6) Con nuôi gian dâm với mẹ nuôi xử chém.
Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi sẽ chấm dứt trong một số trường hợp như: khi cha mẹ đẻ tuyệt tự; cha mẹ nuôi đã sinh con trai; cha mẹ nuôi không có con, con nuôi bỏ cha mẹ nuôi phụ lòng nuôi dưỡng, con nuôi khác họ làm rối loạn tông tộc, con nuôi ăn ở vô nghĩa vô tình, bất hiếu bị cha mẹ nuôi đuổi về bản tông, cha mẹ nuôi phải báo với chính quyền.
* Quan hệ giữa vợ cả và vợ lẽ
Pháp luật triều Lê và triều Nguyễn đều thừa nhận chế độ đa thế nên người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Vì vậy, để đảm bảo trật tự trong gia đình, nhà làm luật đã xác lập trật tự rõ ràng giữa những người vợ nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và quyền lực của người gia trưởng. Điều đó được thể hiện qua một số phương diện sau:
Về thứ bậc trong gia đình người vợ lẽ sẽ không thể thay thế được địa vị của người vợ cả. Người vợ lẽ phải tôn trọng trật tự thê thiếp và không được đảo lộn trật tự đó. Điều 309 QTHL quy định: Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt, vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có vợ thưa thì mới bắt tội). Đồng thời, chồng có thể lấy vợ lẽ khi đã lấy vợ cả. Người chồng có thể có nhiều vợ lẽ nhưng vợ cả thì chỉ được một.
Khi vợ cả chết mới có thể lấy người khác làm chính thất nhưng lại không được lấy nàng hầu hay vợ lẽ lên làm vợ cả. Điều 96 HVLL cũng quy định vợ ngang hàng với chồng, thiếp là người hầu chỉ được tiếp kiến chồng thôi. Nếu người chồng coi vợ là thiếp thì bị xử phạt 100 trượng. Vợ vẫn còn mà lại coi thiếp là vợ thì bị xử phạt 90 trượng. Nếu có vợ rồi lại lấy vợ nữa cũng bị xử phạt 90 trượng, người vợ cưới sau bắt phải li dị.
Cùng là hành vi đánh chồng nhưng vợ lẽ sẽ phải chịu hình phạt cao hơn một bậc so với vợ cả. Vợ lẽ cũng không được đánh vợ cả, dù không gây thương tích vẫn bị xử phạt (quy định cụ thể tại Điều 481 QTHL và Điều 284 HVLL). Hơn nữa, vợ lẽ còn không được mắng chửi vợ cả thậm chí là cha mẹ của vợ cả. Điều 299 HVLL quy định: Thiếp mắng chồng, phạt 80 trượng, thiếp mắng thế tội cũng như vậy. Nếu mắng cha mẹ của người thế thì phạt 60 trượng và chính người nghe thua lên mới bị tội.
Như vậy, quy định của QTHL và HVLL về mối quan hệ giữa vợ cả và vợ lẽ thì vợ lẽ luôn ở địa vị thấp hơn. Sự phân biệt này nhằm bảo vệ chế độ đa thể và bảo đảm sự ổn định trong gia đình.
* Quan hệ giữa anh chị em
Theo tinh thần của QTHL và HVLL cho thấy giữa các anh chị em trong gia đình, người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ đối với các em, nhất là khi cha mẹ đã chết. Nhà làm luật một mặt đề cao địa vị gia trưởng của anh với các em, mặt khác bảo vệ sự hòa thuận của anh em trong gia đình. Pháp luật trừng phạt nặng việc anh em đánh lộn nhau (Điều 478 QTHL và Điều 285 HVLL). Ngoài ra, QTHL còn quy định nếu anh em trong nhà kiện cáo thì sẽ bị xử nặng hơn người thường một bậc. Cụ thể quy định tại Điều 512 QTHL quy định: Anh em không hòa thuận, đến nỗi phải tranh giành kiện cáo nhau, thì người trái lẽ phải xử tội nặng hơn người thường một bậc.
* Quan hệ giữa các thành viên và tôn trưởng (trưởng họ)
Trong chế độ gia đình phụ hệ, người tôn trưởng giữ một vai trò rất quan trọng. Là người đứng đầu quản lý, dẫn dắt gia đình trong các mối quan hệ công và tư. Tôn trưởng có khi còn được gọi là tộc trưởng hay gia trưởng; có thể là người ông người cha hay một người trưởng nam. Pháp luật dành cho người tôn trưởng những quyền mà không một thành viên nào khác trong gia đình có, đồng thời phải gánh vác các trách nhiệm lớn lao.
Với cương vị là người chủ trong gia đình, người tôn trưởng có quyền được tôn trọng, quyền được quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến quyền lợi của dòng họ, quyền được giảm hình phạt khi có hành vi phạm tội đối với thân thuộc bề dưới .... Đồng thời, người tôn trưởng cũng phải gánh vác nghĩa vụ, như nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm khi một tập thể thành viên trong dòng họ phạm tội. Vai trò đó của người tôn trưởng một mặt có ý nghĩa bảo đảm xác lập kỷ cương, trật tự trong gia đình, mặt khác cũng tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các thành viên. Các quyền và nghĩa vụ này được quy định cụ thể trong QTHL và HVLL như sau:
Cả QTHL và HVLL đều quy định người tôn trưởng có quyền quyết định hôn nhân của con cháu trong trường hợp cha mẹ đã chết (Điều Điều 314 Quốc triều Hình, Điều 94 HVLL). Con cháu phải kính trọng tôn trưởng. Ngược lại, tôn trưởng có trách nhiệm bảo ban con cháu, nếu không nghe lời có thể dùng hình phạt để răn dạy. Nhưng nếu như đánh có thương tích thì phải chịu tội. Tuy nhiên, mức hình phạt cũng nhẹ hơn so với người thường. Còn nếu con cháu đánh tôn trưởng thì tội nặng hơn người thường. Điều 478 QTHL quy định:
... Đánh bậc tôn trưởng lại thêm tội một bậc, đánh trọng thương thì xử nặng hơn tội đánh bị thương thường một bậc, đánh chết thì phải tội chém. Bậc tôn trưởng đánh bị thương những con cháu bậc dưới từ hàng ty ma, thì xử nhẹ hơn đánh người thường một bậc; hàng tiểu công, đại công, đều kém dần từng bậc một. Đánh chết thì xử tội giao; đánh chết không phải bằng mũi nhọn và không phải cố ý giết thì xử tội lưu đi châu sa. Tương tự như QTHL, Điều 285 HVLL cũng quy định:
Tôn trưởng đánh ti ấu thì giảm như người thường đánh lộn 1 bực. Ti ấu đánh tôn trưởng thì tăng thêm một bực (không tăng đến chết). Điều 286 cũng quy định:
Nếu bổn tông và bên ngoại tôn trưởng đánh trấu không thương tích thì không kể, đến thương tích trở lên thì hàng tỷ ma (tuy ấu) giảm người thường 1 bậc, tiểu công ty ấu) giảm 2 bậc, đại công ty ấu) giảm 3 bức, đến chết thì treo cổ.
Có thể thấy nội dung này HVLL quy định thứ bậc cụ thể hơn QTHL, nếu mối quan hệ giữa tôn trưởng và con cháu càng gần thì tội đối với con cháu càng nặng và tội đối với tôn trưởng càng nhẹ.
Bên cạnh các quyền thì tôn trưởng cũng là người phải chịu nghĩa vụ lớn nhất trong gia đình. Điều 35 QTHL quy định:
Nhiều người cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả người trong một nhà cùng phạm tội, chỉ bắt tội người tôn trưởng. Điều 29 HVLL cũng quy định:
Phàm những kẻ đồng phạm, một người đầu tiên) khởi xướng là thủ phạm, dựa theo luật để xét tội, còn những kẻ a tòng được giảm tội một mức. Nếu tất cả nhà cùng phạm tội chỉ bắt tội người tôn trưởng. Nếu người tôn trưởng tuổi từ 80 trở lên và bị tật nặng thì quy cho người cùng phạm tội ở hàng dưới của tôn trưởng.
Nhìn chung, đối với quan hệ hôn nhân và gia đình, nhà làm luật triều Lê và triều Nguyễn một mặt mặc nhiên thừa nhận phong tục tập quán (trong đó đã hàm chứa lễ giáo đạo Nho), mặt khác đề ra những chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm. Những quy định của QTHL và HVLL về hôn nhân và gia đình vừa bảo vệ trật tự gia trưởng phong kiến, vừa nhằm củng cố sự hòa thuận, có trách nhiệm với nhau giữa các thành viên trong gia đình, không chỉ đề cao vị trí trụ cột của người cha, người chồng mà ở chừng mực nào đó cũng không xem nhẹ vai trò của người mẹ, người vợ, người con gái trong gia đình. Đó là điểm tiến bộ, một trong những nét đặc sắc của Bộ luật Hồng Đức và HVLL.