Pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự là đối tượng đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm, phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, phải đối mặt với sự áp đặt ý chí thông qua nghĩa vụ và được đảm bảo các lợi ích thiết thân thông qua các quyền.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái niệm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
- 2 2. Đặc điểm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
- 3 3. Mục đích của chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam:
- 4 4. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam:
1. Khái niệm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Lịch sử hình thành nhà nước và pháp luật sớm đã ghi nhận về sự tồn tại của thực thể pháp nhân với các quan niệm về một tổ chức được hình thành trên cơ sở liên kết chặt chẽ và mục đích thống nhất, đồng thời nhân danh chính bản thân tham gia các quan hệ pháp luật v.v...
Pháp nhân trong hệ thống pháp luật tự sản phát triển đến quá độ khi giai cấp này cần phương tiện để củng cố địa vị pháp lý của các tổ chức kinh tế; đồng thời thông qua đó, tránh rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Điều này đòi hỏi sự tách biệt trong quan hệ sở hữu đối với tài sản lưu thông và tài sản của chủ sở hữu nhằm đáp ứng những yêu cầu về phân tán rủi ro; đây cũng là lúc một nhân cách pháp lý mới ra đời sinh ra với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Khái niệm pháp nhân cho đến thời kỳ cận hiện đại đã có những tư tưởng lớn về các xác lập tự cách pháp nhân và động cơ của thực thể này; tuy nhiên, các nền lập pháp lại không đồng nhất được cách định nghĩa khái quát nhất cho thực thể này. Dẫu vậy, các quan niệm về khả năng tồn tại độc lập của pháp nhân vẫn được nhiều quốc gia công nhận với nội dung:
Thứ nhất, pháp nhân tồn tại không phụ thuộc vào sự thay đổi của các thành viên;
Thứ hai, pháp nhân có quyền tài sản độc lập và chịu trách nhiệm về tài sản đó;
Thứ ba, nhân danh nhân danh bản thân thực hiện các hành vi pháp lý, có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước toà án.
Ở Việt Nam khái niệm pháp nhân không được nhắc tới trong các văn kiện cổ mà được du nhập từ các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Trong thời kỳ Pháp thuộc, mô hình kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các nhà tư tưởng pháp đặc biệt là sự kiện quốc hữu hoá vào cuối thế kỷ XVIII, thành phần kinh tế không được đa dạng. Sau đó đến thời kỳ mô hình kinh tế thời chiến được nước ta học tập của Liên Xô mặc dù tạo điều kiện cho cách mạng nhưng tạo nên những rào cản khách quan đến sự hình thành thực thể pháp nhân, đặc biệt là pháp nhân thương mại.
Cho đến thời kỳ kinh tế thị trường sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đa thành phần đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho đời sống kinh tế đất nước. Lúc này, thực thể pháp lý pháp nhân bắt đầu được ghi nhận và tiếp tục hoàn thiện trong BLDS năm 1995, 2005 và 2015. Theo đó:
“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”
Với quan niệm về thực thể độc lập trong quyền và nghĩa vụ, pháp nhân được thừa nhận khả năng tham gia tố tụng thông qua người đại diện của mình. Pháp luật Việt Nam sớm đã công nhận khả năng tham gia quan hệ tố tụng của pháp nhân trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, vv...; tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong lĩnh vực hình sự khả năng này chỉ mới được công nhận khi BLHS và BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực. Đây cũng là lúc các thuật ngữ hình sự và TTHS về pháp nhân được đề cập, đặc biệt là pháp nhân bị truy cứu TNHS.
Trong TTHS, công tố là một quyền đặc biệt nhằm xác định tội phạm và truy cứu TNHS đối với chủ thể của hành vi phạm tội. Theo đó, công tố được hiểu rộng hơn việc truy cứu hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do luật hình sự quy định; quyền năng này bắt đầu sớm hơn truy cứu TNHS, ngay sau khi các nghi ngờ hợp lý về một tội phạm được thực hiện được xác lập bởi cơ quan THTT và kết thúc sau khi đã có bản án kết tội.
Như vậy, pháp nhân bị truy cứu TNHS được hiểu là đối tượng của quyền công tố, theo đó pháp nhân bị áp đặt đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm, phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của bản thân, phải đối mặt với tiến trình thủ tục TTHS với sự áp đặt ý chí thông qua nghĩa vụ và được đảm bảo các lợi ích thiết thân thông qua các quyền.
2. Đặc điểm pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Thứ nhất, pháp nhân bị cáo buộc đã thực hiện các hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội – tội phạm. Cùng với sự bổ trợ về mặt pháp lý hình sự và các công cụ TTHS khác, pháp nhân (cụ thể là pháp nhân thương mại trong PLHS Việt Nam) được ghi nhận về khả năng “thực hiện” hành vi xâm hại các khách thể mà LHS bảo vệ, có địa vị pháp lý để tham gia tố tụng với vai trò bị can, bị cáo. Mặt khác, mặc dù hành vi phạm tội của pháp nhân chủ yếu được thực hiện thông qua thể nhân là thành viên cấu thành pháp nhân đó, theo cơ chế ràng buộc bằng văn bản (điều lệ hoặc hợp đồng nhưng rõ ràng hậu quả của hành vi là đáng kể, cần lên án, ngăn chặn kịp thời. Đặc biệt, cơ chế đại diện cho phép một cá nhân cụ thể tham gia quan hệ xã hội bao gồm các lĩnh vực như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại,... và hình sự với tư cách một người khác, bao gồm cả pháp nhân. Nói cách khác, thông qua các quy định về uỷ quyền và thừa uỷ quyền pháp luật thừa nhận khả năng xác lập hành vi của pháp nhân.
Thứ hai, pháp nhân bị truy cứu TNHS phải đối mặt với hệ thống TPHS và các thủ tục TTHS chặt chẽ. Giống như thể nhân khi bị nghi ngờ về việc đã thực hiện một tội phạm pháp nhân cũng phải đối mặt hệ thống TPHS bao gồm CQĐT, VKS, Toà án và các thiết chế bổ trợ khác, trở thành đối tượng yếu thế hơn do có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Việc áp dụng các biện pháp tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự bao giờ cũng tuân theo các quy định chặt chẽ về thẩm quyền, căn cứ và thủ tục nhằm tránh sự tuỳ tiện và lạm quyền. Cũng giống như người (thể nhân) bị truy cứu TNHS, pháp nhân bị truy cứu TNHS phải đối diện với thủ tục tố tụng ngay khi các nghi ngờ về một tội phạm hướng tới họ; các hoạt động mang tính cưỡng chế có thể được thực hiện trước khi có các quyết định liên quan đến việc truy cứu TNHS và xuyên suốt quá trình TTHS cho đến khi pháp nhân đó bị kết tội bởi một bản án đúng pháp luật.
Quy định BLHS và BLTTHS nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, không có sự tách biệt rõ ràng giữa chủ thể cá nhân và pháp nhân; hệ thống TPHS không phân chia riêng biệt thành hai phần mà chỉ quy định các nội dung đặc thù khác biệt giữa hai chủ thể này nhằm đảm bảo yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm và hoạt động tố tụng.
Thứ ba, nghĩa vụ và quyền của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Mặc dù hạn bị chế do áp đặt nghĩa vụ và áp dụng các biện pháp tố tụng, trong các trường hợp khác nhau, quyền và lợi ích của pháp nhân vẫn được đảm bảo, đặc biệt là quyền được xét xử công bằng (Right to a fair trial). Với nội dung là quyền cơ bản và được bảo đảm từ nhiều quyền cụ thể khác trong TTHS như: quyền được xét xử bình đẳng “không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” – Điều 3 BLHS năm 2015; quyền được xét xử công minh bởi tòa án độc lập, khách quan, theo đúng quy định pháp luật; ngoài ra còn các quyền như: quyền bào chữa, tự bào chữa; quyền được bảo đảm suy đoán vô tội;.v.v...
Xuất phát từ lý lẽ “doanh nghiệp có thể bị truy tố như cá nhân nên họ cũng phải có quyền như cá nhân“ tại nhiều nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa nhằm mục đích hướng tới sự bình đẳng tương đối giữa pháp nhân và thể nhân; hệ thống tư pháp hình sự nhiều quốc gia xây dựng cấu trúc quyền và nghĩa vụ của pháp nhân bị truy cứu TNHS tương đối giống với cá nhân. Cụ thể tại Việt Nam, Điều 74 BLHS năm 2015 và Điều 431 BLTTHS năm 2015, hệ thống tư pháp hình sự cho phép áp dụng các quy định không trái các quy định chung về việc giải quyết vụ án hình sự do pháp nhân phạm tội.
3. Mục đích của chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam:
TNHS pháp nhân thương mại là một chế định mới được quy định trong PLHS thực định Việt Nam, với mục đích thống nhất là răn đe và ngăn ngừa hậu quả các tội phạm xảy ra tương lai; do những hậu quả của những hành vi tội phạm này thường gây ra những thiệt hại đáng kể cho xã hội. Đồng thời, mục tiêu thứ hai của việc ghi nhận TNHS pháp nhân thương mại là phản ánh nhiệm vụ của xã hội của PLHS – trừng phạt những kẻ gây tổn hại để “khẳng định giá trị thực của nạn nhân”. Trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt khi hậu quả vật chất do hành vi phạm tội của pháp nhân đã xảy ra, thông qua các thiết chế hình sự các cơ quan có thẩm quyền có thể cưỡng chế pháp nhân phục hồi trạng thái ban đầu của tài sản, khắc phục thiệt hại hoặc bồi thường thích đáng cho phía nạn nhân.
TNHS pháp nhân thương mại tạo cơ sở cho hoạt động đấu tranh và phòng chống tội phạm hữu hiệu hơn, đặc biệt trong các trường hợp pháp nhân hay doanh nghiệp được thành lập, đưa vào hoạt động vì những động cơ phạm tội có trước đó. Thêm vào đó, TNHS pháp nhân góp phần quan trọng trong việc xây dựng một mô hình kinh tế lành mạnh chống tiêu cực, lợi ích nhóm và phát triển đảm bảo lợi ích cộng đồng.
Ngoài ra, TNHS pháp nhân thương mại đồng thời là căn cứ khảo nghiệm cho sự cần thiết hay không đối với việc mở rộng phạm vi TNHS đối với pháp nhân phi thương mại.
4. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự Việt Nam:
Thứ nhất, việc ghi nhận TNHS pháp nhân (cụ thể là TNHS pháp nhân thương mại) tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo quyền công dân, quyền con người không chỉ trong TTHS mà còn trong hiến pháp và các luật chuyên ngành khác. Trước hết, PLHS đảm bảo bằng cách ghi nhận quyền công dân, quyền con người là khách thể của LHS; điều này có nghĩa LHS xác định đây là nhóm khách thể đặc biệt quan trọng, mà khi xâm hại đến nó chủ thể của hành vi xâm hại có thể phải chịu các chế tài nghiêm khắc nhất của pháp luật. Các hành vi nguy hiểm thực hiện bởi pháp nhân được đưa vào kiểm soát, với mức độ chế tài nghiêm khắc tương ứng, từ đó tạo nên công cụ pháp lý ngăn chặn và đấu tranh với các hành vi nguy hiểm từ nhóm chủ thể này.
Thứ hai, việc ghi nhận TNHS pháp nhân cải thiện và thúc đẩy chất lượng quản lý nhà nước, đưa nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa gần hơn với đời sống xã hội; đồng thời thể hiện thái độ kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Thứ ba, việc ghi nhận TNHS pháp nhân tạo nền tảng phát triển mô hình tố tụng đối với pháp nhân mang giá trị xã hội cao; đồng thời tạo niềm tin của nhân dân vào hệ thống TPHS.