Vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những thông tin mà mình biết rõ là không có thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Vì thế Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 156 về Tội vu khống nhằm bảo vệ quyền con người, giữ gìn trật tự xã hội và sự tôn nghiêm của pháp luật.
Mục lục bài viết
- 1 1. Hành vi vu khống được hiểu như thế nào?
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vu khống:
- 4 4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội vu khống:
- 5 5. Phân biệt Tội vu khống và Tội làm nhục người khác:
- 6 6. Hành vi vu khống bị xử phạt hành chính như thế nào?
- 7 7. Bản án điển hình của Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
1. Hành vi vu khống được hiểu như thế nào?
“Vu khống” là một thuật ngữ pháp lý và đồng thời cũng được sử dụng trong đời sống xã hội để chỉ hành vi bịa đặt, thêu dệt, loan truyền những thông tin không đúng sự thật về người khác; hoặc gán cho họ những hành vi sai trái nhằm mục đích làm giảm uy tín, hạ thấp danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người đó.
Điểm cốt lõi trong khái niệm “vu khống” chính là tính chất giả dối và cố ý. Người thực hiện biết rõ thông tin là sai sự thật nhưng vẫn cố tình lan truyền, tố cáo hoặc gán ghép cho người khác nội dung không có thật. Điều này hoàn toàn khác với sự nhầm lẫn hoặc đưa tin sai do thiếu hiểu biết, bởi hành vi vu khống luôn gắn với sự bịa đặt có chủ đích.
Trong đời sống xã hội, “vu khống” có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như:
- Tung tin đồn thất thiệt;
- Dựng chuyện bôi nhọ danh dự;
- Vu cáo người khác vi phạm pháp luật;
- Hoặc lợi dụng phương tiện truyền thông, mạng xã hội để lan truyền thông tin sai sự thật.
Bản chất của vu khống là sự xâm hại trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự và uy tín của con người vốn là những giá trị tinh thần cốt lõi được pháp luật và đạo đức xã hội bảo vệ.
Trên phương diện pháp luật hình sự, hiện nay hành vi vu khống đang được cụ thể hóa tại Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015.
Kết luận:
“Vu khống là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều mà mình biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
2.1. Cơ sở pháp lý của Tội vu khống:
Tội vu khống trong tiếng Anh là “Slander”. Hiện nay, Điều 154 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vu khống như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2.2. Khách thế:
Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Khách thể trực tiếp của Tội vu khống là xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
2.3. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội vu khống bao gồm những hành vi sau:
a. Có hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác:
- Người phạm tội đã tự đặt ra những điều không đúng với sự thật, không có thật trên thực tế với nội dung xuyên tạc để xúc phạm danh dự của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
- Hình thức thực hiện: nói trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhắn tin qua điện thoại di động…
b. Loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác:
- Người phạm tội bết rõ điều đó là bịa đặt, không đúng sự thật nhưng vẫn cố ý loan truyền điều bịa đặt đó cho người khác;
- Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau: sao chép làm nhiều bản gửi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác, đăng tin trên hội nhóm, đăng bài trên các phương tiện thông tin đại chúng…
c. Bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền:
- Là hành vi tố cáo trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như Công an, Viện kiểm sát hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác) về một hành vi không có thật trên thực tế;
- Trong trường hợp này, cần lưu ý là người phạm tội phải biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội nhưng vẫn cố tình tố giác họ.
Các hành vi khách quan của Tội vu khống phải nhămg mục đích hạ thấp danh dự nhân phẩm của người khác. Tội phạm hoàn thành ngay từ khi thực hiện một trong những hành vi nêu trên, không phụ thuộc vào việc quyền lợi của nạn nhân đã bị xâm hại hay chưa (cấu thành hình thức).
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vu khống là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
2.5. Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Người phạm tội biết những thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm mục đích xúc phạm danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Mục đích của Tội vu khống là nhằm xúc phạm danh dự của người khác. Dấu hiệu mục đích là một trong những cấu thành cơ bản của tội danh này.
3. Khung hình phạt của Tội vu khống:
Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật hình sự 2015 quy định 03 khung chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
Khung 1: Phạt là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
- Có tổ chức;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Đối với nhiều người (từ hai người bị hại trở lên);
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho chính người phạm tội;
Khung 3: Phạt tù từ 3 năm đến 7 năm được áp dụng với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
- Vì động cơ đê hèn;
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Làm nạn nhân tự sát.
Hình phạt bổ sung: Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị: áp dụng hình thức phạt tiền hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội vu khống:
4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về Tội vu khống. Đây là hành vi bịa đặt, loan truyền thông tin sai sự thật hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo trước cơ quan có thẩm quyền, nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài khung hình phạt cơ bản theo khoản 1, điều luật còn quy định các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 và khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 làm tăng tính nghiêm khắc của chế tài. Cụ thể như sau:
- Có tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Khi hành vi vu khống được thực hiện bởi nhiều người có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so với hành vi đơn lẻ.
Tính tổ chức cho thấy sự chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng và khả năng gây ảnh hưởng trên diện rộng. Từ đó gây tổn hại nghiêm trọng hơn đến danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn (điểm b khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Người có chức vụ, quyền hạn khi vu khống người khác sẽ làm cho hành vi trở nên đặc biệt nguy hiểm. Họ lợi dụng vị trí công tác để tạo ra sức nặng cho lời vu khống, khiến dư luận dễ tin tưởng, đồng thời xâm hại đến uy tín của cơ quan và tổ chức.
Tình tiết này không chỉ gây hại cho cá nhân bị vu khống mà còn ảnh hưởng đến niềm tin xã hội vào bộ máy nhà nước, vì vậy cần được áp dụng khung hình phạt ở mức cao hơn.
- Đối với 02 người trở lên (điểm c khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Vu khống nhiều người cùng lúc thể hiện sự phạm tội có phạm vi tác động rộng, gây tổn hại đồng thời đến danh dự, nhân phẩm, quyền lợi hợp pháp của nhiều cá nhân.
Mức độ nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp này tăng lên đáng kể so với các trường hợp thông thường khác, do đó được pháp luật quy định là tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình (điểm d khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Đây là tình tiết thể hiện sự phản bội đạo lý, vô ơn bởi người phạm tội đã vu khống chính những người có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc chăm sóc mình. Hành vi này bị xã hội lên án mạnh mẽ, vì vậy trường hợp này được coi là nghiêm trọng hơn và phải xử lý ở khung hình phạt tăng nặng.
- Đối với người đang thi hành công vụ (điểm đ khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Người đang thi hành công vụ là người thực hiện nhiệm vụ theo pháp luật. Nếu họ bị vu khống, không chỉ gây tổn hại cá nhân mà còn ảnh hưởng đến hiệu lực, uy tín của cơ quan nhà nước cũng như cản trở hoạt động công vụ. Vì vậy, hành vi này được pháp luật coi là nghiêm trọng và áp dụng khung hình phạt nặng hơn.
- Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội (điểm e khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Trong thời đại công nghệ, vu khống qua mạng xã hội, internet có khả năng lan truyền nhanh chóng, phạm vi ảnh hưởng rộng, gây tổn hại lớn cho nạn nhân và khó khắc phục hậu quả. Đây là tình tiết định khung tăng nặng phổ biến trong thực tiễn, phản ánh mức độ nguy hiểm cao của hành vi trong môi trường số.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60% (điểm g khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Khi hành vi vu khống không chỉ làm ảnh hưởng đến danh dự mà còn gây tổn hại sức khỏe tâm thần của nạn nhân, khiến họ bị rối loạn hành vi thì hậu quả đã ở mức nghiêm trọng. Việc lượng hóa bằng tỷ lệ tổn thương cơ thể cho thấy tính chất khách quan và khoa học trong việc xác định mức độ nghiêm trọng.
- Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (điểm h khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Nếu hành vi vu khống bịa đặt người khác phạm những tội thuộc loại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì hậu quả tiềm ẩn vô cùng lớn. Cụ thể nạn nhân có thể bị điều tra, truy tố hoặc mất uy tín xã hội, ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống. Đây là lý do khiến tình tiết này được coi là tình tiết định khung tăng nặng của Tội vu khống.
4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
- Vì động cơ đê hèn (điểm a khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Động cơ đê hèn có thể là để trả thù cá nhân, hạ nhục, triệt hạ uy tín đối thủ hoặc nhằm đạt được lợi ích thấp kém khác. Hành vi xuất phát từ động cơ như vậy thể hiện thái độ coi thường đạo lý, coi nhẹ danh dự, nhân phẩm người khác, nên mức độ nguy hiểm cao hơn và cần xử lý nghiêm khắc.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương 61% trở lên (điểm b khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Hậu quả của hành vi vu khống nếu khiến nạn nhân tổn thương nặng nề về tâm thần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng lao động, học tập, sinh hoạt, thì tính chất đặc biệt nghiêm trọng đã rõ ràng. Đây là tình tiết định khung tăng nặng ở mức cao.
- Làm nạn nhân tự sát (điểm c khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015):
Đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nhất. Vu khống gây sức ép tinh thần, xã hội đến mức nạn nhân tuyệt vọng và tự tước đoạt mạng sống của mình. Trong trường hợp này, hành vi vu khống không chỉ xâm hại danh dự mà còn gián tiếp tước đi quyền sống – quyền tối cao của con người. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt cao nhất cho tình tiết này với khung hình phạt từ 03 đến 07 năm tù.
5. Phân biệt Tội vu khống và Tội làm nhục người khác:
5.1. Điểm giống nhau:
Hai tội danh này có những điểm giống nhau như sau:
- Khách thể là nhân phẩm, danh dự con người;
- Được thực hiện do hình thức lỗi cố ý trực tiếp;
- Chủ thể của hai tội đều là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định chung.
5.2. Điểm khác biệt:
Tiêu chí | Tội làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Danh dự, nhân phẩm của con người – giá trị tinh thần gắn với nhân cách, uy tín của cá nhân. | Vừa xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, vừa có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp khác (như quyền tự do thân thể, quyền tài sản…) do hành vi bịa đặt, tố cáo sai sự thật. |
Hành vi khách quan | Thực hiện hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác (chửi bới, lăng mạ, bêu riếu…). Không nhất thiết phải bịa đặt thông tin sai sự thật. Theo đó, hành vi khách quan của tội danh này thể hiện ở hành vi dung lời nói, cử chỉ lăng mạ, xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự con người. |
Theo đó, hành vi khách quan của tội danh này thể hiện ở hành vi phao tin bịa đặt, loan truyền tin biết rõ là bịa đặt để làm giảm uy tín, gây thiệt hại cho nhân phẩm, danh dự con người hoặc tung tin đồn thất thiệt về tội phạm, tố cáo người khác phạm tội bằng tin bịa đặt. |
Mức hình phạt cơ bản | Cảnh cáo, phạt tiền từ 10 triệu – 30 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng – 01 năm. | Phạt tiền từ 10 triệu – 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng – 01 năm. |
Hình phạt bổ sung | Có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 – 05 năm. | Có thể bị phạt tiền 10 – 50 triệu đồng; đồng thời cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 – 05 năm. |
Tính chất nguy hiểm | Chủ yếu là hành vi xúc phạm trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự cá nhân. Tính chất nguy hiểm tăng khi hành vi dẫn đến tổn hại sức khỏe tinh thần nặng nề hoặc khiến nạn nhân tự sát. | Mang tính nguy hiểm cao hơn vì hành vi bịa đặt, loan truyền sai sự thật có thể ảnh hưởng rộng, gây hậu quả pháp lý nghiêm trọng (nạn nhân bị điều tra oan, mất quyền lợi và uy tín). |
6. Hành vi vu khống bị xử phạt hành chính như thế nào?
Tại điểm a khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định về tội vu khống, bôi nhọ danh dự người khác. Theo đó, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
- Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định 144/2021/NĐ-CP;
- Tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Báo thông tin giả, không đúng sự thật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
- Gọi điện thoại đến số điện thoại khẩn cấp 111, 113, 114, 115 hoặc đường dây nóng của cơ quan, tổ chức để quấy rối, đe dọa, xúc phạm.
Như vậy: Hành vi vu khống, bôi nhọ danh dự người khác (trong trường hợp không đủ yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự) có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Đồng thời, biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng là buộc phải cải chính thông tin sai sự thật, xin lỗi công khai đối với hành vi vi phạm trừ trường hợp nạn nhân có đơn không yêu cầu.
Lưu ý: Mức phạt trên được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân (khoản 2 Điều 4 Nghị định 144/2021/NĐ-CP).
7. Bản án điển hình của Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015:
- Tên bản án:
Bản án số 66/2018/HSST ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Nội dung bản án:
Do nghi ngờ chị Nguyễn Thị H có mối quan hệ tình cảm chồng mình là anh Nguyễn Đình H, nên ngày 08/4/2018, Nguyễn Thị H đã sử dụng mạng xã hội facebook đăng tải các hình ảnh kèm theo thông tin không đúng sự thật về mỗi quan hệ tình cảm giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đình H.
Ngày 12/4/2018 Nguyễn Thị H đã thông qua chị gái là Nguyễn Thị N gửi đơn tố cáo với nội dung sai sự thật về mối quan hệ tình cảm giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đình H đến phòng giáo dục và đào tạo huyện KS, NA.
Hành nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của chị Nguyễn Thị H, đã phạm vào tội “Vu khống” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 156 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Quyết định của Tòa án:
+ Nguyễn Thị H phạm tội “Vu khống”.
+ Nguyễn Thị H 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai bốn) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
THAM KHẢO THÊM: