Thực tế, không ít trường hợp con người rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người khác gây ra, dẫn tới những hành vi bộc phát. Pháp luật hình sự quy định riêng về Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 để xử lý công bằng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 1.1 1.1. Đặc điểm pháp lý của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 1.2 1.2. Căn cứ pháp luật điều chỉnh Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 1.3 1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội danh này trong hệ thống hình sự:
- 1.4 1.4. Hiểu như nào về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?
- 2 2. Cấu thành Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 4 4. Tình tiết tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- 5 5. Phân biệt Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh và Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
1. Khái quát về Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
1.1. Đặc điểm pháp lý của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh là một dạng đặc thù của tội cố ý gây thương tích. Điểm khác biệt cơ bản của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh là nằm ở trạng thái tâm lý của người phạm tội tại thời điểm thực hiện hành vi. Trong những tình huống này, hành vi gây thương tích được thực hiện không phải xuất phát từ ý chí tự chủ hoàn toàn mà là kết quả của sự tác động mạnh về tinh thần, thông thường là do bị xúc phạm nghiêm trọng về nhân phẩm, danh dự hoặc bị tác động trái pháp luật khác.
Đặc điểm pháp lý nổi bật của tội danh này là mức độ lỗi và tính nguy hiểm cho xã hội được đánh giá thấp hơn so với hành vi cố ý gây thương tích thông thường. Người phạm tội vẫn có lỗi cố ý nhưng trong hoàn cảnh tinh thần bị kích động mạnh, lỗi này phần nào được giảm nhẹ do yếu tố khách quan tác động trực tiếp đến ý chí và nhận thức của họ.
1.2. Căn cứ pháp luật điều chỉnh Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
Theo Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người.”
Bên cạnh đó, việc áp dụng tội danh này còn phải kết hợp với các quy định về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015), cùng với hướng dẫn giải thích từ các văn bản dưới luật và thực tiễn xét xử.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội danh này trong hệ thống hình sự:
Việc ghi nhận tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nhiều ý nghĩa:
- Thứ nhất, quy định về Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh để bảo đảm công bằng trong xử lý hình sự. Không thể đánh đồng mức độ nguy hiểm của hành vi gây thương tích do mâu thuẫn bộc phát trong trạng thái tâm lý bị kích động mạnh với hành vi cố ý gây thương tích mang tính chủ mưu, có chuẩn bị từ trước.
- Thứ hai, quy định vè Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, khi thừa nhận và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho những người phạm tội trong điều kiện đặc biệt, bị tác động trực tiếp bởi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng từ phía nạn nhân.
- Thứ ba, Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh góp phần răn đe và phòng ngừa tội phạm. Nó vừa nhắc nhở người dân kiềm chế cảm xúc để không vi phạm pháp luật vừa cảnh báo nạn nhân không được có những hành vi khiêu khích, xúc phạm người khác đến mức có thể dẫn tới những hệ quả nguy hiểm.
1.4. Hiểu như nào về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?
Vấn đề trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong Bộ luật hình sự đã được hướng dẫn lần đầu tiên tại điểm b Mục 1 Chương 2 Nghị quyết 04/1986/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, theo đó:
Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi phạm tội. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh.
Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là vô cùng khó khăn. Điều này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, điều tra kỹ hành vi khách quan của người phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, có hay không việc người phạm tội bị đè nén, áp bức nặng nề…
2. Cấu thành Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
2.1. Khách thể:
Khách thể trực tiếp của tội phạm này là quan hệ xã hội liên quan đến sức khỏe và tính mạng của con người. Hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
So với tội cố ý gây thương tích thông thường theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, khách thể không có sự khác biệt, song điểm đặc thù là hành vi phạm tội được đặt trong bối cảnh có tác động trái pháp luật nghiêm trọng từ phía nạn nhân, đây chính là yếu tố làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi: Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó.
Sự kích động mạnh đó có thể là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỉ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được.
Để có thể xác định tinh thần của người phạm tội có bị kích động hay không cần xem xét một cách khách quan, toàn diện các mặt:
- Thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của sự việc;
- Mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, tính tình, cá tính của mỗi bên;
- Mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với tình trạng tinh thần bị kích động của người phạm tội.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội phạm này bắt buộc phải thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Trường hợp cố ý trực tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể hoặc tất yếu xảy ra nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Trường hợp cố ý gián tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội cũng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho những hậu quả đó xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh là bất kỳ người nào có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Cụ thể:
- Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như tính chất pháp lý của hành vi, đồng thời có khả năng điều khiển được hành vi phạm tội của mình, tức là không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự;
- Chủ thể của tội phạm này phải đủ 16 tuổi trở lên.
2.5. Cách chứng minh yếu tố “tinh thần bị kích động mạnh”:
“Tinh thần bị kích động mạnh” là trạng thái tâm lý đặc biệt khi con người bị tác động dữ dội, mất khả năng tự chủ trong một thời điểm nhất định dẫn tới hành vi bộc phát vượt ngoài kiểm soát.
- Nguồn gốc kích động: Phải bắt nguồn từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân (ví dụ: chửi bới, lăng mạ nghiêm trọng; hành hung; xúc phạm danh dự, nhân phẩm; đe dọa tính mạng…);
- Chứng minh: Thông qua lời khai nhân chứng, camera ghi hình, kết luận giám định tâm thần (nếu cần thiết) và các chứng cứ khách quan khác;
- Việc chứng minh yếu tố này là rất quan trọng trong thực tiễn xét xử bởi nó quyết định người phạm tội bị xử lý theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
3.1. Mức phạt của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
- Khoản 1: Người phạm tội bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
- Khoản 2: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy, hình phạt vừa mang tính răn đe, vừa thể hiện sự khoan hồng, bởi lẽ người phạm tội chịu tác động từ hoàn cảnh đặc biệt nên mức độ nguy hiểm cho xã hội được đánh giá thấp hơn.
3.2. So sánh mức hình phạt với Tội cố ý gây thương tích:
Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội cố ý gây thương tích thông thường và Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nằm ở mức độ hình phạt:
- Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015: Thấp nhất là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm và cao nhất là tù chung thân;
- Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015: Thấp nhất là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm và cao nhất là 03 năm tù giam.
Điều này phản ánh quan điểm lập pháp: Hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tính chất bột phát, tức thời, không có sự chuẩn bị hay chủ mưu, do đó cần được xử lý nhẹ hơn, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo và công bằng trong luật hình sự.
3.3. Ý nghĩa của việc quy định mức hình phạt nhẹ hơn:
- Công bằng trong trách nhiệm hình sự: Người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không thể bị xử lý ngang bằng với người có hành vi chuẩn bị, lên kế hoạch kỹ lưỡng;
- Khuyến khích sự tự kiềm chế: Dù pháp luật khoan hồng nhưng hình phạt vẫn nhằm răn đe, nhắc nhở công dân phải kiểm soát cảm xúc, không để kích động dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật;
- Giữ gìn trật tự xã hội: Việc áp dụng hình phạt mềm dẻo giúp xử lý hài hòa mâu thuẫn xã hội, hạn chế sự bất bình trong dư luận khi người bị kích động mạnh lâm vào tình thế đặc biệt.
4. Tình tiết tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh:
Khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về các tình tiết định khung tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh như sau:
a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên theo điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015:
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 01 lần đối với 02 người trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 02 lần trở lên đối với 02 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên và những lần đó chưa bị xử lý hình sự, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS, được đưa ra truy tố, xét xử cùng một lúc.
Trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên được thực hiện 02 lần trở lên thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội còn phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người theo điểm b khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015:
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác “dẫn đến chết người” là trường hợp phạm tội mà việc phạm tội là nguyên nhân làm nạn nhân chết. Tuy nhiên, người phạm tội không cố ý gây ra hậu quả làm nạn nhân chết.
Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức là chỉ thỏa thuận với người thực hiện hành vi gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người phạm tội chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu theo thỏa thuận; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức, thì người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” với tình tiết định khung là “dẫn đến chết người”.
5. Phân biệt Tội cố ý gây thương tích khi tinh thần bị kích động mạnh và Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
Tiêu chí | Tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 2015 | Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 125 Bộ luật Hình sự năm 2015 |
---|---|---|
Khách thể | Quan hệ xã hội liên quan đến sức khỏe của con người. | Quan hệ xã hội liên quan đến tính mạng của con người. |
Hành vi khách quan | Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. | Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. |
Hậu quả | Người bị hại bị thương tích, tổn hại sức khỏe và xác định bằng tỷ lệ % thương tật. | Nạn nhân chết – hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc. |
Điều kiện đặc thù | Hành vi xảy ra khi người phạm tội đang ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra. | Tương tự, hành vi giết người phải diễn ra trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. |
Lỗi | Cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng lỗi bị hạn chế bởi sự kích động mạnh. | Cố ý trực tiếp, mong muốn tước đoạt tính mạng người khác, nhưng trong trạng thái bị kích động mạnh. |
Khung hình phạt | Khoản 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Khoản 2: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. | Khoản 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Ít nghiêm trọng hơn, chỉ xâm phạm đến sức khỏe, thiệt hại có thể khắc phục. | Nguy hiểm hơn, xâm phạm trực tiếp tính mạng – quyền nhân thân cao nhất. |
Tính nhân đạo của luật | Giảm nhẹ so với Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Tội cố ý gây thương tích thông thường). | Giảm nhẹ so với Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Tội giết người thông thường). |
THAM KHẢO THÊM: