Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là tổng hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước thu hồi đất của người dân, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để phục vụ mục đích giải phóng mặt bằng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là gì:
- 2 2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
- 3 3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng:
- 3.1 3.1. Cơ chế, chính sách của nhà nước về đất đai và về bồi thường, hỗ trợ GPMB:
- 3.2 3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
- 3.3 3.3. Nhu cầu và kế hoạch xây dựng quỹ nhà, quỹ đất tái định cư:
- 3.4 3.4. Công tác định giá đất đền bù thiệt hại GPMB:
- 3.5 3.5. Sự phát triển của thị trường bất động sản:
- 3.6 3.6. Nhận thức của người dân bị thu hồi đất:
1. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là gì:
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của quản lý Nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý Nhà nước kém hiệu quả.
Chính vì vậy, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước sử dụng pháp luật như là phương tiện để thực hiện sự quản lý đối với xã hội, muốn đạt được mục đích nảy, pháp luật phải đi vào thực tiễn dưới dạng hành vị hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Trên cơ sở đó, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là “một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Các quy phạm pháp luật hết sức phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật đó là: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Khi nói đến thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là nói đến việc các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này buộc phải tuân thủ đầy đủ các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên.
Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chỉ có thể phát huy tốt nhất chức năng bảo đảm khi pháp luật có những quy định phù hợp nhưng điều quan trọng hơn là bảo đảm cho pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện. Quá trình thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nói riêng suy cho cùng là làm cho những yêu cầu, quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống thực tiễn khi điều chỉnh hành vi của các chủ thể. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trước hết pháp luật phải thống nhất, minh bạch và phải được các chủ thể tuân thủ nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện. Việc áp dụng pháp luật khi bồi thường, hỗ trợ phải nhanh chóng, thuận lợi, khoa học; thủ tục áp dụng pháp luật cần đơn giản khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ cho các đối tượng. Việc thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một quả trinh thống nhất từ tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật để tổ thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của những cơ quan nhủ nước có thẩm quyền là yêu cầu quan trọng của pháp chế XHCN. Các nguyên tắc về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất là một yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật.
Từ sự phân tích trên, có thể nêu ra khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau: “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm cho các quy định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện, bảo đảm đảm chỉ, khách quan, công bằng, công khai và kịp thời.”
2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
2.1. Chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Khi tham gia quan hệ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất các chủ thể bao gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức phát triển quỹ đất, doanh nghiệp, người có đất bị thu hồi.
a) Cơ quan Nhà nước: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo thủ tục đã được quy định. Tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gồm UBND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh căn cứ vấn tình hình địa phương trong giao việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện và Tổ chức phát triển quỹ đất, UBND cấp huyện và cấp xã tham gia trực tiếp vào Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện. Thành viên của Hội đồng bao gồm: Chủ tịch là lãnh đạo UBND cấp huyện; Các thành viên là: Đại diện cơ quan tài chính; Đại diện cơ quan tài nguyên và môi trường: Đại diện chủ đầu tư; Đại diện UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi; Đại diện của những hộ gia đình bị thu hồi đất từ 1 đến 2 người, một số thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng quyết định cho phù hợp với thực tế địa phương.
b) Tổ chức phát triển quỹ đất: Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp luật; có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đối với địa phương đã có Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện thì tổ chức lại Trung tâm phát triển quỹ đất trên cơ sở hợp nhất Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện hiện có. Trung tâm phát triển quỹ đất có chức năng tạo lập, phát triển, quản lý, khai thác quỹ đất; tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhận chuyển nhượng QSDĐ của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, tổ chức thực hiện việc đấu giá QSDĐ và thực hiện các dịch vụ khác.
c) Chủ đầu tư: Thủ tục tiến hành thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng sẽ do UBND cấp có thẩm quyền đứng ra thực hiện còn chủ dự án không có thẩm quyền thu hồi đất hay bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, chủ đầu tư là đơn vị đảm bảo nguồn kinh phí để thực hiện công tác thu hồi đất sau khi quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và quyết định thu hồi đất được UBND cấp có thẩm quyền ban hành.
d) Người có đất bị thu hồi: Là chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về bồi thường. Khi tham gia phải thực hiện một số quyền và nghĩa vụ sau:
– Quyền: Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định pháp luật. Đăng ký đến nơi ở tái định cư bằng văn bản được ưu tiên đăng ký hộ khẩu cho bản thân, các thành viên khác trong gia đình về nơi ở mới và được ưu tiên chuyển trường cho các thành viên trong gia đình trong độ tuổi đi học. Được từ chối vào khu tái định cư không đảm bảo các điều kiện như đã thông báo và niêm yết công khai. Được cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí. Được quyền khiếu nại, tố cáo liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
– Nghĩa vụ: Giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Thực hiện chuyển vào khu tái định cư theo đúng thời gian quy định xây dựng nhà, công trình đúng quy hoạch và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Nộp tiền mua nhà hoặc tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Theo quan niệm phổ biến hiện nay, khách thể của quan hệ pháp luật là mục đích điều chỉnh pháp luật của Nhả nước và lợi ích mà các bên tham gia hướng tới. Trong quan hệ pháp
Đối với Nhà nước, khách thể mà Nhà nước hưởng tới chính là toàn bộ vốn đất quốc gia thuộc đối tượng sở hữu và quản lý của mình, được phân chia thành các nhóm đất sau: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng. Đối với người sử dụng đất và chủ đầu tư, khách thể mà họ hướng tới là từng thửa đất cụ thể, giá bồi thưởng đối với thửa đất đó.
2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một lĩnh vực cụ thể của thực hiện pháp luật nói chung, do đó nó cũng thể hiện đầy đủ những hình thức mà lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã chỉ ra. Bao gồm: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật có liên quan kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Hình thức này có ở tất cả các chủ thể pháp luật, ở mỗi công dân, mọi cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà đưa pháp bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vào cuộc sống. Chẳng hạn, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có hiệu lực thi hành.
Thứ hai, chấp hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Khác với hình thức tuân thủ, chủ đề pháp luật phải kiềm chế không thực hiện những hành vi pháp luật ngăn cấm trong quá trình thu hồi đất. Còn hình thức thi hành pháp luật lại đòi hỏi phải thực hiện trách nhiệm pháp lý một cách tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc ( những quy định nghĩa vụ phải thực hiện hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức này. Chẳng hạn, trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi: Khi có quyết định hồi đất, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi có trách nhiệm chấp hành đầy đủ và đúng thời gian về thu hồi đất, kê khai diện tích, loại đất, vị trí đất, số lượng tài sản hiện có trên đất, kể khai số nhân khẩu, số lao động, các thông tin khác có liên quan và đề đạt nguyện vọng tái định cư (nếu có) theo hướng dẫn của tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba, sử dụng pháp luật về bồi thưởng, hỗ trợ, tái định cư: Đây là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (Thực hiện những hành vi pháp luật cho phép). Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ: Chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Người bị thu hồi đất có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được khiếu nại, tố cáo của mình về quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của Luật khiếu nại,
Thứ tư, áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để ban hành các quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật. Như vậy, hình thức áp dụng pháp luật luôn thể hiện ý chí của Nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, những chủ thể được Nhà nước trao quyền để ban hành những quyết định cá biệt cần phải tuân thủ triệt để những quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhằm cả biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Ví dụ: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất không đúng quy định của pháp luật, thì người bị thu hồi đất có quyền khởi kiện quyết định đó ra toà án để yêu cầu toà án giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi cá nhân khởi kiện đến toà án và toả án tiến hành giải quyết cần phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật nói chung và Luật tố tụng hành chính nói riêng.
Như vậy, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng được thể hiện thông qua bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức còn lại. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước (thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền).
3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng:
3.1. Cơ chế, chính sách của nhà nước về đất đai và về bồi thường, hỗ trợ GPMB:
Từ khi có
3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý của nhà nước về đất đai. Nó giúp cho việc sử dụng đất đai đúng mục đích, đạt hiệu quả cao và tiết kiệm, giúp nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai, giúp người sử dụng đất có những biện pháp hữu hiệu và kết quả cao trong quá trình sử dụng đất. Nói cách khác, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một công tác rất quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế nói chung và trong quản lý đất đai nói riêng.
Dù Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Song, công tác này còn nhiều nhiều tồn tại, hạn chế và bất cập. Vấn đề đặt ra là khi làm công tác này phải dựa vào thực tiễn, phải có tính khoa học, định hướng và hiệu quả, phải tận dụng khai thác đất kém hiệu quả, đất chưa sử dụng, đất trống đồi núi trọc cho xây dựng và hạn chế tối đa sử dụng vào đất nông nghiệp và đất khu dân cư đông đúc để giảm bớt khó khăn trong vấn đề GPMB. Mặt khác, Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải được công khai cho toàn dân được biết thì GPMB mới diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và không gặp những vướng mắc đáng có.
3.3. Nhu cầu và kế hoạch xây dựng quỹ nhà, quỹ đất tái định cư:
Trong thực tế, khi GPMB ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống sản xuất, sinh hoạt, ăn ở của những người phải di dời. Một trong những vấn đề khó khăn cho họ đó là việc ổn định chỗ ở, có những trường hợp mặc dù đã được đến bù, xong họ vẫn không đủ điều kiện để ổn định một chỗ mới. Chính vì vậy, vấn đề tổ chức một khu tái định cư cho những người di dời là một vấn đề cần làm trước một bước cho tiến độ và hiệu quả của dự án.
3.4. Công tác định giá đất đền bù thiệt hại GPMB:
Định giá là sự ước tính về giá trị các quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho mục đích đã được xác định.
Định giá được hiểu như là một nghệ thuật hay khoa học trong việc ước lượng giá trị tài sản cho một mục tiêu đặt ra. Ở đây có thể có nhiều các tính chất của tài sản nhà đất được dùng cho các mục đích khác nhau như: chỗ ở của dân cư, chỗ kinh doanh thương mại, chỗ sản xuất. Tuy nhiên, thực tiễn có rất nhiều lý do đòi hỏi phải định giá đất. Một trong những lý do đó là định giá cho đền bù GPMB và định giá nhằm đưa ra giá đền bù (giá ép buộc).
Hiện nay, công tác định giá đất còn mới mẻ trong khi số lượng dự án đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng ngày càng nhiều và nhiệm vụ đền bù thiệt hại tăng cho nên công tác định giá đất có vị trí vô cùng quan trọng và việc xác định giá đền bù phải phù hợp giá thực tế là rất cần thiết để đảm bảo lợi ích cho người bị thu hồi và cho tiến độ thi công của dự án.
3.5. Sự phát triển của thị trường bất động sản:
Khi thị trường bất động sản phát triển, sẽ góp phần thúc đẩy tiến độ thực hiện công tác GPMB nhờ việc nhanh chóng xác định được hệ số K thông qua giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường, việc xác định được tính hợp pháp hay không hợp pháp, thời gian mua bán, chuyển nhượng, giá nhà và đất. Trong thị trường bất động sản các quan hệ mua bán nhà đất được công khai và các thông tin này luôn được kiểm soát và cập nhật ở cơ quan quản lý thuế.
Giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ được xác định trên cơ sở giá đất do UBND thành phố ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số điều chỉnh K.
Hệ số điều chỉnh K được xác định chủ yếu trên cơ sở quan hệ tỷ lệ giữa giá đất tính theo khả năng sinh lợi với giá đất do UBND thành phố ban hành hoặc trên cơ sở quan hệ tỷ lệ giữa giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế với giá đất do UBND thành phố ban hành. Việc xác định hệ số K có chính xác hay không tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hiện nay chưa có thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhất là đối với đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp còn chưa phát triển. Việc xác định khả năng sinh lợi trong sản xuất nông, lâm nghiệp trên cơ sở giá trị sản lượng, lợi nhuận cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp. Thực tế chủ yếu là việc chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông, lâm nghiệp bất hợp pháp sang mục đích sử dụng khác ở khu vực ven đô. Các quan hệ mua bán nhà ở, mua bán quyền sử dụng đất diễn ra phổ biến nhưng nó diễn ra với một quá trình “ngầm” nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Do đó, việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, đưa các quan hệ giao dịch về nhà đất, quan hệ mua bán, cho thuê, thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà) công khai trên thị trưởng và có sự kiểm soát, điều tiết của Nhà nước sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định giá đất để tính bồi thường, trong việc quản lý Nhà nước về đất đai và chắc chắn việc này sẽ đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho Nhà nước cũng như nhân dân.
3.6. Nhận thức của người dân bị thu hồi đất:
Văn hóa của người Việt Nam dù ở nông thôn hay thành thị, đều mang ít nhiều tính chất của văn hóa làng xã. Điểm nổi bật trong văn hóa làng xã, đó là tâm lý của người dân bị tác động rất nhiều từ phía những người sống xung quanh mình, hay còn gọi là “hàng xóm láng giềng”. Ta có thể thấy trên thực tế đã xảy ra những tình huống như thế này: Một hộ gia đình trong diện giải tỏa không đồng ý với mức bồi thường, đã quyết định khiếu nại để được bồi thương với mức giá cao hơn . Hàng xóm của gia đình này, những hộ dân cũng trong diện giải tỏa, thấy hộ gia đình kia có khả năng được đền bù với mức giá cao hơn, cũng đâm đơn khiếu nại. Kết quả là tất cả các hộ dân thuộc diện giải tỏa đều có đơn khiếu nại, khiếu kiện về mức giá bồi thường.
Không chỉ dùng ở đó, trong những trường hợp cá biệt, những người dân trong diện giải phóng mặt bằng còn cố ý chây ỳ, không chịu giao mặt bằng với suy nghĩ, “đất càng để lâu càng được đền bù giả cao”. Đây là hành vi xuất phát từ tâm lý “phép vua còn thua lệ làng” trong suy nghĩ của không ít người dân Việt Nam.
Mặc dù những rắc rối này có thể giải quyết bằng con đường pháp lý và biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, các phương pháp này mất nhiều thời gian và gây mất lòng tin của người dân vào các dự án thu hồi đất của nhà nước sau này.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, nhận thức của nhiều người dân trong thực hiện GPMB về các chính sách bồi thường, hỗ trợ GPMB cũng như lợi ích của GPMB đối với đất nước, đối với địa phương và đối với bản thân họ và gia đình họ còn hạn chế, đặc biệt là đối với người dân khu vực nông thôn. Điều này xuất phát từ yếu tố tâm lý như đã phân tích, song nguyên nhân rất quan trọng ở đây là hạn chế tử chỉnh các chính sách đã được ban hành cũng như việc tổ chức tuyên truyền và thực thi trên thực tế các chính sách đó.
Ngoài ra, các yếu tố như: năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, sự chủ động, nhạy bén của nhà đầu tư cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và hiệu quả của công tác này. Một số chủ đầu tư chưa năng động, chủ động tích cực phối hợp với chính quyền địa phương, coi công tác GPMB là trách nhiệm của chính quyền địa phương cũng sẽ làm chậm tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB của dự án.