Trần Tế Xương sử dụng vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học việc khắc họa hình tượng bà Tú và bài thơ Thương Vợ để lại nhiều ấn tượng, phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học trong bài Thương vợ, mời bạn tham khảo.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương chọn lọc:
- 2 2. Phân tích sự vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương đầy đủ nhất:
- 3 3. Giá trị nội dung:
- 4 4. Giá trị nghệ thuật:
- 5 5. Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học trong bài Thương vợ qua từng câu thơ hay nhất:
1. Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương chọn lọc:
“Thương vợ” là một trong những bài thơ mà Tú Xương vận dụng một cách sáng tạo hình ảnh và ngôn ngữ.
Về hình ảnh: Trong ca dao, hình ảnh con cò mang nhiều ý nghĩa: có khi nói về thân phận người phụ nữ phải bươn chải, phấn đấu, chịu thương chịu khó; đôi khi tượng trưng cho thân phận người lao động nhiều bấp bênh, thua thiệt.
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Hay:
Con cò mày đi ăn đêm
Nhẵm phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Như vậy, con cò trong ca dao tự nhiên gây bao chua xót, ngậm ngùi. Nhưng dường như điều đó liên quan đến tính cách đặc biệt của bà Tú lại càng gây thương cảm, xót xa hơn. Ngoài ra, so với từ “thân cò” trong ca dao, từ “thân cò” của Tú Xương thông dụng hơn, nó giống với thân phận người phụ nữ trong cuộc sống gia đình, thay mặt chồng hy sinh tất cả cho chồng chăm như một đứa trẻ Vì thế, tình yêu của Tú Xương cho vợ cũng thấm thía hơn, sâu sắc hơn.
2. Phân tích sự vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương đầy đủ nhất:
Về từ ngữ:
– Thành ngữ “năm nắng mười mưa” được Tú Xương vận dụng một cách rất sáng tạo.
– Cụm từ “nắng mưa” chỉ sự vất vả. Các chữ năm, mười là số lớn và nhiều, rồi ghép với từ “nắng, mưa” để tạo thành sự bất lực lam lũ. Tác dụng của nó thể hiện sự chăm chỉ, cố gắng cũng như đức tính chịu thương, chịu khó hết lòng vì chồng con của bà Tú.
– Ngoài ra, nhà văn còn vận dụng một cách sáng tạo chủ đề của câu ca dao “Duyên phận” là “một duyên hai nợ” để nhấn mạnh rằng duyên phận của một người đàn ông và một người phụ nữ giống như số phận của trời, vì vậy tình yêu ở đây là sự sắp đặt từ trước và không thể tránh khỏi.
3. Giá trị nội dung:
– Hình ảnh bà Tú – người phụ nữ nghèo khó nhưng đảm đang, gánh vác gánh nặng cơm áo gạo tiền của gia đình trên đôi vai gầy – đã thành đạt.
– Đồng thời, qua đây người đọc cũng cảm nhận được tấm lòng yêu thương, kính trọng vợ của Trần Tế Xương
– Đằng sau hình ảnh người vợ này là hình ảnh ông Tú đầy tâm sự. Bà Tú càng gan góc, tháo vát, chăm chỉ bao nhiêu thì ông Tú càng nhỏ nhen, đần độn, vô dụng bấy nhiêu. Đây là sự thất bại của người trí thức đương thời trước cuộc sống trôi nổi và xã hội quan liêu thối nát.
4. Giá trị nghệ thuật:
– Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên và diễn cảm. Tình cảm chân thành tiêu biểu trong thơ Trần Tế Xương Sử dụng sáng tạo hình tượng con cò và nghệ thuật dân gian trong việc khắc họa hình tượng bà Tú
– Từ Hình tượng bà Tú ẩn chứa giọng điệu trào phúng, bất lực
Đặc sắc Nghệ thuật Bài Thương vợ
– Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, diễn cảm. Một tình cảm chân thành tiêu biểu cho thơ Trần Tế Xương.
– Vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò và nghệ thuật dân gian trong việc khắc họa hình tượng bà Tú
– Hình tượng bà Tú được nhắc đến trong những giọng ca ngợi ca, yêu thương, đằng sau đó ẩn chứa hình ảnh tác giả Tiếng trào phúng bất lực được nhắc đến trong từng câu thơ .
– Kết hợp phương ngữ và ngôn ngữ hàng ngày.
– Hình ảnh thơ hàm súc, gợi cảm.
5. Phân tích sự vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học trong bài Thương vợ qua từng câu thơ hay nhất:
Ngay đầu bài thơ, hình ảnh bà Tú đã hiện ra :
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Câu đầu kể về thời gian và công việc của bà Tú. Bà phải làm việc cật lực “quanh năm”, bốn mùa không nghỉ, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, dù mưa hay nắng. Bà làm quanh năm suốt tháng như vậy ở “mom sông”, nơi những khoảng đất nhô ra ven sông bấp bênh, hiểm trở. Bà phải bươn chải buôn bán ở nơi nguy hiểm như vậy để đảm bảo tài chính cho gia đình và “nuôi” chồng con. Câu thơ thứ hai cho thấy gánh nặng gia đình đè lên vai bà Tú. Cách nói về gánh nặng gia đình của bà Tú đặc biệt đặc trưng: “năm con một chồng”. Bà Tú phải gồng mình nuôi thêm 5 người con nữa. Câu nói này khiến ông Tú cười tự giễu: Thì ra mình còn là một đứa trẻ phải nuôi. Nhận ra mình là gánh nặng trên đôi vai gầy của bà chứng tỏ ông Tú rất biết ơn người vợ vất vả của mình. Ở hai khổ thơ đầu miêu tả về thời gian, không gian làm việc của bà Tú và tác giả đã vẽ nên một bức chân dung bà Tú cần cù, dũng cảm, kiên nhẫn, chịu khó và trọng nghĩa tình.
Hai câu tiếp theo tiếp tục khắc họa hình ảnh bà Tú :
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Hai khổ thơ này có kết cấu đặc biệt: đảo vị ngữ ở đầu câu, nhấn mạnh hai từ chỉ hình ảnh. Bà Tú phải “lặn lội” từ sáng sớm, chạy tới chạy lui “khi quãng vắng”. Công việc của bà khiến bà Tú phải dậy đi làm vì mọi người đã ngủ say, về đến nhà ai nấy đều sum vầy bên gia đình thì bên ngoài là những “quãng vắng” nguy hiểm với bà. Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh ẩn dụ nổi tiếng “con cò” trong ca dao Việt Nam. Trong ca dao, hình ảnh con cò thường tượng trưng cho những người lao động, nhất là những người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, bất hạnh. Cách tạo hình ảnh “con cò” thành “thân cò” khi nhắc đến bà Tú vừa cho thấy cảnh nghèo khó, vất vả, lao động của bà Tú vừa đáng thương, đáng thương, vừa cho thấy tình thương của bà dành cho chồng con. Ngoài việc phải vất vả thức khuya dậy sớm, bà Tú còn gặp không ít khó khăn trong công việc kinh doanh. Khi chợ đông đúc, nhiều người bán kẻ mua, anh không tránh khỏi việc bị khách hàng phàn nàn, “eo sèo”. Ở cả hai câu thơ, nhà thơ đều miêu tả những vất vả, khó khăn của bà Tú bằng phép tương phản, đảo ngữ và những từ ngữ gợi hình, so sánh quen thuộc, từ đó gợi lên hình ảnh: một người phụ nữ cần cù, yêu thương, tần tảo vì chồng con. Điều đó cũng thể hiện sự thấu hiểu và yêu thương vợ của ông Tú.
Hai câu luận vẫn là hình ảnh bà Tú :
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.
Hai câu thơ với hai cách diễn đạt để nói về bà Tú. “Một duyên hai nợ” là thành ngữ để chỉ sự khó khăn của bà : bà Tú chỉ có một“duyên” hạnh phúc nhưng lại phải gánh “hai nợ”, hai gánh nặng là vợ con. Nhưng bà chưa bao giờ oán trách, chưa bao giờ kêu ca, chưa bao giờ oán trách trời đất, mà vui vẻ đón nhận, coi như đó là số phận của mình,“âu đành phận”. Những khó khăn, hy sinh của bà Tú không phải là duy nhất. Dù được cho là “năm nắng mười mưa” Bà chịu khổ, hy sinh tất cả để lo cho gia đình, bà không nghĩ gì đến riêng mình. Bằng hai câu đối, đối lập và vận dụng thành ngữ một cách sáng tạo, nhà thơ đã hoàn thiện bức chân dung phẩm giá cao quý của bà Tú: tình yêu thương chồng con và lòng tận tụy cao cả. Ở hai khổ thơ này, giọng thơ cất lên từ cảm giác đau khổ, vật vã, gợi lên tiếng thở dài não nề, chua xót của người đàn ông cảm thấy tủi thân khi phải để vợ một mình gánh vác việc nhà. Điều này chứng tỏ rất mực yêu vợ của Tú Xương.
Nếu như sáu câu đầu là bức chân dung bà Tú: cần cù, siêng năng, yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và vị tha được đúc kết từ tình yêu thương, kính trọng vợ thì đến hai câu cuối, ông Tú đã mượn lời bà Tú để cất lên tiếng chửi thói đời :
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Câu trên, ông Tú đã sử dụng khẩu ngữ “cha mẹ” để chửi “thói đời” khiến bà Tú khổ. “Thói đời” ấy là cái “thói” Trong xã hội phong kiến xưa, điều này là phổ biến: người chồng Nho chỉ lo ăn học lo thi cử, còn người vợ một mình xoay xở tài chính, chèo chống chăm chồng. Có chửi lối sống đen bạc, anh quay sang chửi là “chồng hờ hững” chồng vô dụng, không làm được gì cho vợ bớt khổ thậm chí còn “hờ hững” vợ. Có thể vì quá giận bản thân nên ông Tú đã phóng đại chửi mình là người chồng vô tâm, nhưng thực ra, một người phụ nữ để ý, trân trọng và khen ngợi những đức tính tốt của vợ thì chính ông cũng thừa nhận. Là một nhà Nho sống trong một xã hội đề cao lòng tự trọng và tư tưởng trọng nam khinh nữ đặc biệt mạnh mẽ, ông vẫn tỏ ra hết sức tôn trọng vợ, không những không thừa nhận khuyết điểm của mình. Hai dòng cuối bài thơ bằng ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, bằng ngôn ngữ đời thường, nhà văn đã bộc lộ nỗi niềm của người chồng, người vợ phải gồng mình gánh vác; đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao thượng của ông Tú.
Toàn bộ bài thơ, với sự vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, giọng thơ dân gian, kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình, Tú Xương đã gửi đến người đọc cái nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.