Vai trò của Đảng trong thời chiến là lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Hiện nay vai trò của Đảng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội nhằm đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đất nước. Vậy, các nguyên tắc xây dựng và tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Mục lục bài viết
- 1 1. Các nguyên tắc xây dựng và tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
- 1.1 1.1. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng:
- 1.2 1.2. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng:
- 1.3 1.3. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, luật phát triển của Đảng:
- 1.4 1.4. Kỷ luật nghiêm minh và tự giác là quy luật phát triển sức mạnh của Đảng:
- 1.5 1.5. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguyên tắc quan trọng của Đảng:
- 2 2. Đánh giá các nguyên tắc xây dựng và tổ chức Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam và những biện pháp nâng cao hiệu quả của tổ chức Đảng:
1. Các nguyên tắc xây dựng và tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Đảng Cộng Sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Vì vậy, Hồ Chí Minh tuân thủ các nguyên tắc tổ chức Đảng kiểu mới của Lênin vào việc xây dựng, tổ chức Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.1. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng:
Về tập trung, người nhấn mạnh tập trung trong Đảng là phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Do đó“ Cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng Trung ương”. Từ đó làm cho“ Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người”.Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh dân chủ trong Đảng. Quan niệm gốc của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh cho rằng: nước ta là nước dân chủ, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng, là làm cho mọi người mạnh dạn có ý kiến, làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Người khẳng định: chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do, bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lí. Đó là một quyền lợi, cũng là nghĩa vụ của mồi người. Người luôn luôn nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người cho rằng: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt”. Đồng thời, Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng và trong nội bộ các tổ chức chính trị xã hội.
Trong nguyên tắc này, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ tuỳ tiện, phân tán, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm bảo đảm cho Đảng phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Tức là đề cao vai trò của tập trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh lãnh đạo to lớn trong tiến trình cách mạng. Đây là biểu hiện cụ thể tính tiên phong, tính chiến đấu của giai cấp công nhân. Cùng với tập trung phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Do đó, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là một yêu cầu khách quan của một tổ chức đảng chân chính. Khi nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm sẽ làm cho Đảng suy yếu, nội bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối, chủ trương của Đảng lệch lạc, sai lầm, uy tín của Đảng bị giảm, Đảng sẽ dần mất quyền lãnh đạo với quần chúng. Vì vậy, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng nhằm xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng đảng giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống và trên cơ sở bảo đảm giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt đảng.
1.2. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng:
Người cho rằng: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau”.
Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi đến mấy, dù có nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Do đó, cần phải có nhiều người. Nhiều người sẽ có nhiều kinh nghiệm, người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt kia của vấn đề đó. Nhờ đó, mọi mặt của vấn đề đều được xem xét, vấn đề mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm. Từ đó, có thể thấy vai trò lãnh đạo tập thể là rất lớn. Chỉ có lãnh đạo tập thể mới huy động được toàn bộ trí tuệ của đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đưa đến các tệ bao biện, độc đoán, chủ quan kết quả là hỏng việc”. Tuy nhiên, tập thể lãnh đạo mới chỉ là một vế của nguyên tắc.
Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Trong công tác xây dựng Đảng, trách nhiệm của cá nhân được đề cao. Cá nhân phụ trách nhằm tạo ra tính chuyên trách, gắn trách nhiệm để giải quyết công việc một cách tốt nhất. Khi một vấn đề đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch mà thi hành. Nếu không cho cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra tệ người này ỷ lại người kia, kết quả là không ai thi hành. Người khẳng định: “ Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái bừa bãi, lộn xộn, vô Chính phủ. Kết quả là hỏng việc”.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc có ý nghĩ to lớn. Thứ nhất là phát huy được sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân. Thứ hai là tránh được tình trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ trong Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám chịu trách nhiệm. Đây là hiện tượng thường thấy hàng ngày, khi có thành tích thì nhận về mình, còn khuyết điểm sai lầm thì đổ lỗi cho tập thể. Không chú ý đến lãnh đạo tập thể thì sẽ bao biện, độc đoán, chủ quan; đồng thời không chú ý đến cá nhân phụ trách thì sẽ dẫn đến bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Trong giai đoạn đất nước mở cửa hội nhập với thế giới hiện nay, trách nhiệm của tập thể , của cá nhân càng phải được phát huy để tổ chức Đảng không ngừng phát triển lớn mạnh, đủ sức dẫn dắt toàn dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng- thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
1.3. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, luật phát triển của Đảng:
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này, nó là vũ khí để rèn luyện Đảng viên, để nâng cao trình độ của lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
Người thường đặt “ tự phê bình” lên trước “phê bình” vì Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa nếu tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Người xem đây là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc… Người đã thẳng thắn vạch rõ : “ Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu là có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Tự phê bình và phê bình vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người đã phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, đả kích người khác…
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn mạnh mục đích của tự phê bình và phê bình là cốt để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, để làm cho tư tưởng và hành động được đúng hơn tốt hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.
1.4. Kỷ luật nghiêm minh và tự giác là quy luật phát triển sức mạnh của Đảng:
Người đặc biệt coi trọng việc xây dựng một kỉ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Sức mạnh to lớn của Đảng là ở tinh thần kỉ luật tự giác, ý thức tổ chức kỉ luật nghiêm minh của cán bộ Đảng viên. Mọi Đảng viên đều bình đẳng trước kỉ luật của Đảng.
Nghiêm minh là nguyên tắc thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỉ luật đối với mọi cán bộ, Đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, Đảng viên đều bình đẳng trước kỉ luật của Đảng.
Tự giác thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và cho chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy Đảng mới thành một khối thống nhất về tư tưởng và hành động nếu không “ Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”. Từ việc phải tuân thủ kỉ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỉ luật đó là ý thức Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỉ luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại ý thức kỉ luật xuống thấp, nếu cán bộ, đảng viên có nhiều vi phạm kỉ cương phép nước, tự cho mình là người lãnh đạo, coi thường kỉ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng giảm thấp, càng dẫn tới nhiều nguy cơ cho Đảng.
1.5. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguyên tắc quan trọng của Đảng:
Thực sự đoàn kết thì mới thống nhất được ý chí và hành động của tổ chức Đảng. Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ, toàn Đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, toàn Đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, phải thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, mọi Đảng viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của chính mắt mình. Việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân luôn được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, việc xây dựng khối đoàn kết trong Đảng làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân.
Người viết: “ Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ con ngươi của mắt mình”.Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm và Điều lệ Đảng nhằm tạo sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động, thông qua đó mà hiện thực hóa đường lối, quan điểm của Đảng trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh viết: “ Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước phát triển phức tạp, nhiệm vụ của Đảng ngày càng nặng nề, thực tế này đòi hỏi Đảng phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự thống nhất của nhiều cán bộ đảng viên, đến toàn đảng. Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu cầu như: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ cán bộ đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình yêu thương đồng chí…
2. Đánh giá các nguyên tắc xây dựng và tổ chức Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam và những biện pháp nâng cao hiệu quả của tổ chức Đảng:
Ở bất kỳ thời nào, dù là thời chiến hay thời bình thì 5 nguyên tắc tổ chức Đảng vẫn giữ nguyên vị trí của nó trong quá trình tổ chức và hoạt động của Đảng. Mỗi một nguyên tắc lại giữ một vai trò quan trọng có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất làm nên Đảng cộng sản của ngày hôm nay. Nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ví nó làm cho tổ chức Đảng có tính kỉ luật chặt chẽ, loại trừ được sự chia rẽ bè phái, đảm bảo tập trung thống nhất tạo nên sức mạnh của Đảng. Nếu nguyên tắc này không được đảm bảo thì Đảng sẽ không thể trở thành tổ chức đoàn kết thống nhất, rất dễ lâm vào tình trạng chuyên quyền, độc đoán, vô tổ chức. 5 nguyên tắc này cần phải nhìn nhận một cách tổng thể và khái quát. Ví như nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Người giải thích: “ Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”. Hay để nhấn mạnh nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Người nhấn mạnh: “ Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Theo đó, nguyên tắc tự phê bình và phê bình là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc khác như nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, kỉ luật nghiêm minh và tự giác….
Tư tưởng xây dựng Đảng của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa thực tiễn và lý luận sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước. Trong bối cảnh, điều kiện mới, đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức không nhỏ, Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, đồng thời xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh; phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi những hạn chế, yếu kém; để lấy lại niềm tin trong nhân dân, xứng đáng với vai trò người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục động cơ, bồi dưỡng kỹ năng, xây dựng tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho đội ngũ đảng viên nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu, đòi hỏi mới của xã hội của chức trách, nhiệm vụ, lĩnh vực, sát với công việc thực tế, thiết thực của mỗi đảng viên.
Thứ hai, mỗi đảng viên cần phải tự xác định rõ về mình và tích cực giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của địa phương, ngành, của cơ quan, đơn vị mình với trình độ bất cập của bản thân để xây dựng kế hoạch, xác định ý chí, quyết tâm thường xuyên tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ trí tuệ, kiến thức, năng lực cần thiết và phẩm chất đạo đức lối sống, phương pháp, tác phong công tác, làm việc của mình để hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho.
Thứ ba, tạo môi trường, điều kiện rèn luyện thực tiễn và phong trào tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ đảng viên gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương, hoạch định chính sách xây dựng và phát triển đất nước vì vậy, vai trò của Đảng Cộng sản vô cùng quan trọng trong cả thời chiến và thời bình. Để làm được điều ấy, không phải chỉ trong quá trình làm cách mạng giải phóng dân tộc, mà cho đến ngày nay, đất nước hoàn toàn thống nhất, trải qua 80 năm hoàn thiện và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa khi nào rời xa các nguyên tắc hoạt động và tổ chức Đảng. Có thể nói khi nào còn chủ nghĩa xã hội, còn Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khi đó năm nguyên tắc trên vẫn là kim chỉ nam dẫn dắt quá trình hoạt động và tổ chức của Đảng.