Hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp với những vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu vẻ đẹp đó qua bài phân tích dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng Chí siêu hay:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”.
1.2. Thân bài:
Chính Hữu (1926 – 2007) là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với lối viết giản dị, giàu cảm xúc và chủ yếu thể hiện hình ảnh người lính trong các sáng tác của mình.
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác đầu năm 1948 viết về tình đồng chí, đồng đội thân thiết của những người chiến sĩ cách mạng và được in trong tập “Đầu súng trăng treo”.
Bộ đội đều xuất thân từ “ruộng chua mặn ngọt”, “cày đất sỏi”.
→ Đều là những vùng quê nghèo đã tạo nên sự đồng điệu trong tâm hồn người lính.
Những người lính dù không quen biết nhau, nhưng họ may mắn gặp nhau và gắn bó với nhau vì chung lý tưởng chiến đấu “súng kề vai.
Hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt đã giúp những người lính trở thành “tri kỷ” của nhau.
Những người lính đã phải rời bỏ quê hương, “ruộng”, “nhà”, “giếng nước”, “gốc đa” để đánh giặc.
Anh chị em rất hiểu nhau và cũng hiểu tình cảm của những người thân sau lưng nhau.
Các chiến sĩ cũng chia sẻ những vất vả, thiếu thốn của những đêm “sốt rét” vì hầu như người lính nào cũng trải qua ít nhất một lần.
Họ cùng nhau chia sẻ những khó khăn về tư trang trong những ngày đầu kháng chiến nhưng vẫn lạc quan, yêu đời đến “cười lạnh”.
Họ quên mình để truyền lại hơi ấm “Nắm tay nhau yêu thương”.
→ Đây là hành động đoàn kết, gắn bó, tiếp thêm sức mạnh cho tình đồng chí, đồng đội cùng nhau chiến đấu vì Tổ quốc.
Trong khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên “rừng hoang sương muối”, những người lính vẫn sát cánh bên nhau, lặng lẽ chờ quân thù đến.
Hình ảnh người lính cầm súng tưởng chừng như đối lập nhưng lại vô cùng hài hòa với thiên nhiên bởi trăng tượng trưng cho cái đẹp, hòa bình còn người lính cầm súng là để bảo vệ đất nước.
Đoạn thơ đã thổi một làn gió mới cho khuynh hướng sáng tạo thơ ca kháng chiến.
Đoạn thơ đã xây dựng thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng giản dị, mộc mạc với nhiều nét đẹp đáng trân trọng.
Ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm thể hiện sự hình thành và phát triển của tình đồng chí ngày càng sâu nặng.
1.3. Kết bài:
Đánh giá lại hình ảnh của người lính trong bài Đồng Chí.
2. Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng Chí siêu hay:
Một nhà thơ đã từng tâm sự:
“Đất nước mình đây
Hai mươi năm
Mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu: “Tôi là đồng chí
Của những người đi, vô tận, hôm nay”
Đó là ai nếu không phải là nhà thơ Chính Hữu – nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Giữa bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, Chính Hữu không chỉ vững vàng đánh giặc mà còn ấp ủ những vần thơ thần tình về người lính. Và “Đồng chí” là một trong những bài thơ như vậy.
Tác giả Chính Hữu là một người lính Cụ Hồ chân chính. Ông từng là Đại tá, Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị – Quân đội nhân dân Việt Nam; Nguyên Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và tham gia bộ đội trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp. Phong cách thơ chịu ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh; anh gây ấn tượng với lối sáng tác bình dị, giàu cảm xúc và chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau khi nhà thơ cùng đồng đội chiến đấu trong chiến dịch
Giặc xâm lược nước ta, các anh đã theo tiếng gọi của Tổ quốc, rời bỏ quê hương, gia đình để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng đó.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Những người lính đều có xuất thân giống nhau, xuất thân từ “ruộng mặn, ruộng chua”, “đất cày thành đá”, tài sản quý giá nhất đối với họ chính là tình yêu quê hương cháy bỏng. Đây đều là những vùng quê nghèo, cuộc sống của họ quanh năm gắn bó với ruộng đồng nhưng cũng không đủ ăn. Chính vì sự tương đồng đó mà lòng chiến sĩ đồng điệu với nhau. Họ cảm nhận được sâu thẳm tâm hồn của nhau và nhanh chóng gắn kết với nhau đến khó tin.
Một điều luôn soi sáng, dẫn đường cho các chiến sĩ đó là lý tưởng cách mạng, khát vọng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc; để Bộ đội Cụ Hồ luôn sẵn sàng chiến đấu kể cả khi nghỉ ngơi “đầu súng trăng treo”. Chính kim chỉ nam đó đã biến những người xa lạ trở thành anh em một nhà, đùm bọc, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn.
Chúng ta cùng nhau vượt qua khó khăn để biết ơn những người có công. Hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt đã giúp những người lính trở thành “bạn bè”, chung chăn gối; cùng nhau vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết lạnh giá.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Những hình ảnh rất gần gũi, thân thuộc nhưng cũng có chút mộc mạc đã được nhà thơ tái hiện đó là “cánh đồng”, “ngôi nhà”, “giếng nước”, “gốc đa”. Những người lính rời nơi “chôn rau cắt rốn” để đánh giặc thực sự ra đi không tài sản gì quý giá, nhà cửa dột nát, đung đưa theo thời tiết. Họ lên đường với trái tim cháy bỏng, nhiệt huyết của tuổi trẻ, sẵn sàng hy sinh để đổi lấy hòa bình cho Tổ quốc.
Họ rất hiểu nhau và cũng rất hiểu tình cảm của nhau nơi hậu phương “Giếng nước nhớ người lính”. Họ biết rằng trách nhiệm của họ rất lớn lao, trên vai họ là trách nhiệm với đất nước, sau lưng họ là sự kỳ vọng của gia đình mong họ trở về. Những người lính hiểu rằng, những người phụ nữ chờ đợi họ ở nhà không cần các chàng trai trở về với chiến công hiển hách, mà chỉ mong họ bình an trở về.
Họ chia sẻ với nhau mọi thứ, kể cả những gian khổ, thiếu thốn nơi rừng sâu, cả những đêm “sốt rét”, nơi rừng sâu lạnh giá ấy, nơi muỗi, vắt nhiều hơn cả cây cối. Điều duy nhất họ có thể dựa vào là hơi ấm của nhau. Người lính nào cũng phải trải qua những đêm mệt mỏi ấy ít nhất một lần trong đời, không thể khỏi bệnh và vượt qua nghịch cảnh đó.
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cuộc sống thường ngày của họ vốn đã khó khăn, có khi còn không đủ ăn, làm sao chuẩn bị đủ tư trang để đi, họ cũng vậy, lạ thay, cả hai đều thiếu thốn trong những ngày cơ cực, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Những người lính vẫn lạc quan, yêu đời và luôn nở nụ cười trên môi. Trong cái thời tiết lạnh giá đó, quần không thể có quần xịn, không có giày. Họ quên mình để lan tỏa hơi ấm “Thương nhau nắm tay nhau”. Đây là hành động đoàn kết, gắn bó, động viên tình đồng chí, đồng đội cùng nhau chiến đấu vì Tổ quốc.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra, thiên nhiên và con người như tô điểm thêm cho nhau, những người lính không hề run sợ mà ngược lại sẵn sàng tự tin, kề vai sát cánh chờ giặc ập đến. Một khoảng trống lớn ở đâu đó, những “khu rừng sương mù”, chiếc giường như sự xuất hiện của những người lính là cuộc sống duy nhất ở đây. Những người lính trong tư thế trang nghiêm, tay cầm súng ngay ngắn. Hình ảnh người lính cầm súng tưởng chừng như đối lập nhưng lại hòa hợp với thiên nhiên bởi vầng trăng tượng trưng cho sự trong sáng, thanh bình còn người lính cầm súng ra trận vì một mục tiêu duy nhất là sự bình yên của Tổ quốc.
Bài thơ mang đến một làn gió mới cho xu hướng sáng tác thơ kháng chiến, không còn là bức tranh miêu tả người lính, Chính Hữu đi vào những chi tiết rất đời thường của họ, những việc anh làm. trải nghiệm như một lời tâm sự với người đọc. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng giản dị, mộc mạc với nhiều vẻ đẹp đáng trân trọng, tình yêu nồng nàn sẵn sàng hi sinh vì nước, đó là tình cảm giản dị với đất nước cho gia đình và quê hương.
Với tấm lòng trong sáng, giản dị, bên cạnh nội dung chính là thơ viết về người lính, Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm để nói lên sự hình thành và phát triển, tình đồng chí ngày càng được coi trọng. Vì thế, người đọc có cảm giác quen thuộc, đôi khi thấy hình ảnh của chính mình trong đó.
Người ta thường nói: “Văn học nghệ thuật cần những con người biết nhìn thực tế bằng trái tim”. Quả thật, Chính Hữu đã đưa hiện thực vào văn của mình một cách tự nhiên, để người lính hòa vào hồn thơ, trữ tình vào cách mạng, chất thép với thơ. Nhưng đồng thời cũng truyền tải một sự thuần khiết như ngọc – đó là hình ảnh người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Và khi thời gian qua đi, tác phẩm sẽ mãi là bản hùng ca khó quên trong lòng người đọc.
3.Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng Chí đạt điểm cao nhất:
Viết về tình đồng chí trong những năm kháng chiến đã có những vần thơ rất hay và độc đáo. Và trong chùm tác phẩm này không thể không nhắc đến bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Với ngôn ngữ giản dị, cách diễn đạt độc đáo đã đem đến cho đề tài này một nét mới, nét độc đáo của bài thơ. Hình ảnh người lính hiện lên thật gần gũi, thân thương và cũng rất đỗi tự hào.
Nếu hình ảnh người lính nông dân trong “Nhớ” của Hồng Nguyên hiện lên thật hồn nhiên, giản dị:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Rồi người lính của Chính Hữu lại hiện ra với bao khó khăn, gian khổ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá”. Họ đến từ nhiều quốc gia khác nhau: người xứ biển, người miền trung du khô cằn, họ vốn là những người xa lạ, nhưng vì một mục đích chung, một lý tưởng chung, họ đã tụ hội về đây. Họ chiến đấu để bảo vệ đất nước, hình ảnh “đầu súng kề vai sát cánh” vừa thể hiện nhiệm vụ chiến đấu, vừa thể hiện lý tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của họ. Hơn nữa, ông còn sử dụng biện pháp tu từ để tạo giọng điệu mạnh mẽ, khắc họa đậm nét tình cảm gắn bó bền chặt của người lính.
Khổ thơ đầu kết thúc bằng từ “Đồng chí”, đây là một mẫu câu đặc biệt, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Chỉ hai từ này nhưng nó trở thành bản lề để đóng mở hai dòng thơ. Khép lại những cơ sở để tạo nên tình đồng chí cao quý và mở ra những biểu hiện cao đẹp, sáng ngời của tình cảm quý báu ấy. Đồng thời, hai chữ đồng chí cũng là cách Chính Hữu lý giải vì sao từ bốn phương, từ nhiều nơi khác nhau lại tự nguyện gắn bó với nhau. Bởi họ là những con người có cùng ý chí, nguyện vọng, cùng lý tưởng chiến đấu bảo vệ xóm làng, bảo vệ người thân và rộng ra là bảo vệ quê hương. Tình cảm cao quý ấy là cơ sở, là cội nguồn của mọi sức mạnh của người chiến sĩ nông dân.
Lên đường với quyết tâm cao nhưng không vì thế mà người lính không nhớ quê hương, nhớ nguồn. Nỗi nhớ ấy như nguồn động lực, cổ vũ, động viên người lính cố gắng hơn nữa trên con đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Chính Hữu đã miêu tả rất chân thực những gian khổ, nghèo khổ của người lính. Anh không dùng con mắt màu hồng để tô vẽ cuộc sống mà nhìn nó, nhìn nó một cách thực tế, trực diện:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày
Năm tháng chiến đấu và hành quân xuyên rừng, các chiến sĩ không chỉ bị dày vò bởi căn bệnh sốt rét có thể cướp đi sinh mạng bất cứ lúc nào mà còn phải chịu cảnh thiếu thốn về vật chất: quần áo rách, quần vá, giày đi chân đất. Nhưng điều khiến họ có thể vượt qua mọi khó khăn chính là tình đồng chí, đồng đội thân thiết: Thương nhau nhau tay nắm lấy tay. Chính những cái bắt tay ấm áp, đầy tình cảm đã giúp họ vượt qua mọi cơn sốt rét rừng, giúp họ vượt qua mọi giá rét, khắc nghiệt của thời tiết để cùng hướng tới một lý tưởng chung, một sứ mệnh chung:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Họ chủ động, tự tin, luôn sẵn sàng chiến đấu. Câu thơ cuối vỏn vẹn bốn chữ, cô đọng, súc tích nhưng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa trong đó. Theo nghĩa thực: trong đêm phục kích quân thù giữa núi rừng hiểm trở, vầng trăng trở thành người bạn luôn sát cánh bên người chiến sĩ. Đêm xuống, trăng thấp hơn, nhìn từ xa trông như trăng treo trên đầu súng. Không chỉ vậy, với câu thơ 2/2 và từ láy gợi hình ảnh treo lơ lửng, ta có cảm tưởng trăng đung đưa theo nhịp điệu chứ không tĩnh tại. Làm cho khung cảnh sống động hơn. Ngoài ra, hình ảnh có một ý nghĩa tượng trưng. Ánh trăng và người lính là cùng một người lính và nhà thơ, giữa thực và mộng, giữa chiến tranh và hòa bình. Hai hình ảnh đối lập nhưng trong câu thơ của Chính Hữu lại hài hòa đến lạ lùng, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, yêu đời của người lính, người luôn cầm chắc tay súng để bảo vệ tính mạng cho người lính. hòa bình cho đất nước.
Với ngôn ngữ cô đọng, súc tích, hình ảnh chân thực, có sức khái quát cao, tác phẩm ca ngợi tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết. Đồng thời, tác giả cũng tái hiện chân thực, giản dị và đẹp đẽ hình ảnh Bác Hồ trong kháng chiến.