Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa (Vietnamese socialist law) là gì? Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiếng Anh là gì? Đặc điểm, vai trò của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa?
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu phát triển tất yếu, khách quan ở nước ta hiện nay trong công cuộc đổi mới đất nước, bắt nguồn từ những nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng cần được hoàn thiện, củng cố để điều chỉnh các mối quan hệ, đảm bảo an sinh xã hội.
Mục lục bài viết
1. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì?
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếng Anh là ”Vietnamese socialist law”.
2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Tính nhân dân sâu sắc
Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác.
Tính nhân dân của pháp luật nước ta được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật, phổ biến và giáo dục pháp luật. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, nhà nước ta thực hiện nhiều hình thức để thu hút sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật để các quy định pháp luật ngày càng phù hợp với cuộc sống.
Hoạt động xây dựng pháp luật những năm gần đây thực sự đã và đang được đổi mới cả về nội dung, hình thức, cách thức xây dựng. Các quyền, lợi ích chính đáng của người dân đã được ghi nhận và có cơ chế bảo đảm, bảo vệ hữu hiệu hơn. Hoạt động kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật cũng được quan tâm hơn, thông qua đó góp phần tích cực vào việc phát hiện những quy định pháp luật bất cập, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của người dân và kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Khẳng định đường lối phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước bằng một hệ thống pháp luật và các công cụ quản lý khác.
Trong những năm qua, nhà nước đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật có chất lượng cao, về cơ bản đã tạo dựng được khung pháp luật phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thay thế cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mệnh lênh hành chính bao cấp, hiện vật trước đây, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế của xã hội. Nhờ vậy, đã tạo lập được hành lang pháp lý cho việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư, giảm dần sự can thiệp của cơ quan Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại. Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm và tác động tích cực đến đời sống kinh tế – xã hội, hệ thống các văn bản pháp luật về kinh tế nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, nhất là trong các quy định pháp luật về thủ tục, về cơ chế thực thi pháp luật.
Tính cưỡng chế nhà nước trong pháp luật
Với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng, do nhà nước ban hành, xuất phát từ thực tiễn xã hội, pháp luật nước ta tất yếu được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa tuy mang tính cưỡng chế, nhưng tính cưỡng chế đó đã chứa đựng những nội dung mới, khác với cưỡng chế trong các kiểu pháp luật bóc lột. Do nội dung của pháp luật xã hội chủ nghĩa phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân dân nên có điều kiện được người dân thực hiện một cách tự giác. Các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với những người vi phạm pháp luật trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục, thu hút sự tham gia của xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật, giúp đỡ những người vi phạm pháp luật trở thành các công dân tốt cho xã hội.
Các biện pháp cưỡng chế nhà nước có mục đích xử lý nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục, cải tạo họ thành những người lao động lương thiện. Các biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng không nhằm mục đích gây đau đớn, dày vò về thể xác, xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người. Hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong pháp luật không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân các biện pháp đó mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác như tính hợp lý, mức độ răn đe, công tác giáo dục đạo đức, pháp luật, dư luận xã hội. Cần thường xuyên thăm dò, nghiên cứu dư luận xã hội về việc áp dụng các chế tài xử lý vi phạm để từ đó có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp.
Cơ sở đạo đức và tính dân tộc của pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện tính dân tộc sâu sắc, có mối quan hệ mật thiết với văn hóa, đạo đức, phong tục, tập quán. Đạo đức truyền thống dân tộc và những giá trị, nguyên tắc đạo đức tiến bộ nhân loại là cơ sở của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, giữa chúng không có sự đối lập nào. Các tư tưởng và qui tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đến lượt mình, pháp luật lại củng cố và truyền bá các giá trị đạo đức đó. Từ Hiến pháp đến các văn bản pháp luật khác đều ghi nhận, bảo vệ các quan điểm, chuẩn mực đạo đức truyền thống.
Xu hướng chung là pháp luật nước ta càng ghi nhận nhiều hơn các quy tắc đạo đức. Xử sự theo những quan điểm, chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc đã được bộ luật dân sự ghi nhận thành nguyên tắc pháp lý mà các chủ thể phải tuân theo trong các giao dịch dân sự: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng…Tương tự, trong các quan hệ lao động,
Pháp luật chỉ có thể thực hiện được vai trò là phương tiện điều chỉnh hàng đầu nếu như có sự hỗ trợ của các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. Các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức luôn là tiêu chí tác động đến nội dung của các quy phạm pháp luật, được tính đến khi xem xét các vấn đề pháp lý và ngược lại: trong từng vấn đề của đạo đức đều phải xem xét cả về phương diện pháp lý. Đồng thời pháp luật còn có mối quan hệ mật thiết với các loại quy tắc xã hội khác như phong tục, tập quán, truyền thống… Khi áp dụng pháp luật, muốn được công bằng và đầy đủ, cần phải được bổ sung bằng tục lệ, tập quán . Pháp luật Việt Nam bảo vệ những phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời cũng có những quy định nhằm ngăn cản, hạn chế và loại trừ dần những tập tục lạc hậu, phản tiến bộ như tệ đa thê, tảo hôn,…
Pháp luật là hình thức thể hiện đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình phát triển của xã hội chỉ có thể được thực hiện thông qua nhà nước bằng một hệ thống pháp luật. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta có nhiệm vụ thể chế hóa thành các quy định pháp luật để đưa đường lối đó vào cuộc sống.
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng. Các nền pháp luật trước như chủ nô, phong kiến có phạm vi điều chỉnh hẹp, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực hành chính – chính trị với mục đích bảo vệ, củng cố nền thống trị của thiểu số giai cấp bóc lột, duy trì sự bất bình đẳng trong xã hội. Pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có phạm vi điều chỉnh rộng; không những chỉ quy định về tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan nhà nước mà còn quy định các quyền và nghĩa vụ công dân trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, quy định những vấn đề về quản lý lao động, kiểm tra, thống kê. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội mới xuất hiện đã kịp thời có các văn bản pháp luật điều chỉnh như về bảo vệ môi trường, thị trường chứng khóan, các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của pháp luật nước ta. Từ phương diện nhà nước pháp quyền, có thể đề cập đến nhiều đặc điểm khác nữa của pháp luật như tính dân chủ, nhân đạo, công bằng, bảo vệ quyền con người… Những vấn đề này sẽ được xem xét ở các mục tiếp theo.
3. Vai trò của pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Cần xem xét vai trò pháp luật trong các mối quan hệ phổ biến của pháp luật: trong quan hệ với kinh tế, nhà nước, đạo đức, văn hóa truyền thống, quyền và lợi ích chính đáng của công dân v .v… Sau đây sẽ lần lượt xem xét các mối quan hệ tiêu biểu của pháp luật thông qua đó nghiên cứu vai trò của pháp luật.
Mối quan hệ và vai trò của pháp luật đối với nhà nước
Giữa nhà nước và pháp luật có mối quan hệ biện chứng dù ở giai đoạn phát triển nào. Nhà nước và pháp luật không thể tồn tại thiếu vắng nhau, điều này đã được đề cập trong các chương trước của giáo trình. Trong xã hội hiện đại, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, mối quan hệ đó lại càng được thể hiện rõ nét.
Nhà nước sử dụng nhiều loại công cụ, biện pháp khác nhau để quản lý xã hội, nhưng pháp luật là công cụ chủ yếu và quan trọng nhất. Sở dĩ như vậy là vì, pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Chính vì vậy, pháp luật có khả năng triển khai một cách nhanh chóng nhất, đồng bộ và có hiệu quả trên quy mô toàn quốc những chủ trương chính sách của Đảng. Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường nên nhất thiết phải có hệ thống pháp luật để quy định quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, xử lý những hành vi kinh doanh trái pháp luật và đạo đức xã hội, thực hiện công bằng trong sản xuất, phân phối.
Pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của nhà nước, cơ sở xây dựng và hoàn thiện nhà nước. Pháp luật là phương tiện kiểm soát hoạt động nhà nước, xác định giới hạn cho phép hay không cho phép, đảm bảo sự kiểm soát đối với nhà nước. Bằng pháp luật mà quy định cơ cấu tổ chức bên trong và hoạt động của nhà nước, của các cơ quan nhà nước. Nhờ có pháp luật mà nhà nước thực hiện được các nhiệm vụ, chức năng, các chính sách đối nội và đối ngoại của mình, xác định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quy chế pháp lý đối với các cá nhân.
Pháp luật là phương tiện xác lập mối quan hệ của nhà nước và cá nhân, nhà nước và xã hội. Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm phạm của người khác, kể cả từ phía nhà nước, các cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền. Bằng các biện pháp tương ứng của nhà nước như thuyết phục, giáo dục, tổ chức, tài trợ; cưỡng chế, kết hợp sự tự giác tuân thủ của các cá nhân, tổ chức, các biện pháp xã hội khác, các quy định pháp luật mới đi vào cuộc sống. Tuy có mối liên hệ mật thiết, song nhà nước và pháp luật vẫn là hai hiện tượng xã hội có tính độc lập tương đối, không nên đồng nhất, lấy nhà nước thay cho pháp luật hoặc ngược lại.
Vai trò của pháp luật đối với kinh tế.
Những vấn đề chung về mối quan hệ pháp luật và kinh tế như đã được trình bầy ở các chương trước, kinh tế quyết định pháp luật, pháp luật phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, đồng thời pháp luật có tác động trở lại đối với kinh tế. Pháp luật nước ta một mặt ghi nhận những yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, tạo lập hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế đa dạng của toàn xã hội, mặt khác có tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của pháp luật phụ thuộc vào chất lượng của các quy định pháp luật và sự áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn.
Trong những năm đổi mới đất nước vừa qua, xét trên bình diện tổng thể, pháp luật đã có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đơn cử,
Cơ chế thị trường mang tính khách quan song nếu để tự phát sẽ không giải quyết được tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu xã hội. Bằng pháp luật tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, điều tiết thu nhập, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh theo pháp luật; xử lý tranh chấp kinh tế, bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật.
Pháp luật là công cụ chủ yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước, tạo lập hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm kỷ cương xã hội, lợi ích cá nhân, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. Pháp luật có vai trò thúc đẩy, hỗ trợ, phát huy những mặt tích cực của kinh tế thị trường. Pháp luật có vai trò to lớn để hạn chế những mặt trái, tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường như độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, thất nghiệp, suy thoái tài nguyên, môi trường…
Vai trò pháp luật về các vấn đề xã hội
Bên cạnh vai trò to lớn đối với kinh tế, pháp luật còn có vai trò to lớn, công cụ điều chỉnh đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực các vấn đề xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, mở cửa giao lưu quốc tế như hiện nay, vai trò của pháp luật đối với các vấn đề xã hội lại ngày càng gia tăng.
Pháp luật là hình thức chủ yếu để thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Hiểu theo nghĩa rộng, pháp luật về các vấn đề xã hội là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo đảm xã hội; văn hóa, giáo dục, y tế, trật tự, an toàn xã hội, dân số, môi trường… Những văn bản pháp luật tiêu biểu trong lĩnh vực này như:
Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, lợi ích chính đáng của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của công dân mà còn quy định cơ chế pháp lý, các quy định pháp luật thủ tục để thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân. Các quyền và lợi ích chính đáng của công dân được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Công cuộc cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước mà trọng tâm là cải cách nền hành chính quốc gia, thủ tục hành chính đều hướng đến mục tiêu bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Vai trò của pháp luật đối với việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận và bảo đảm thực hiện dân chủ với các hình thức phong phú của dân chủ trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay. Cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, vai trò của pháp luật đối với dân chủ và ngược lại. Sự mở rộng dân chủ, động lực của công cuộc đổi mới đã và đang đặt ra các yêu cầu mới cho pháp luật. Pháp luật phải quy định rõ ràng, minh bạch vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong dân chủ hóa các lĩnh vực hoạt động của cá nhân và xã hội. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật đảm bảo…quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm. Dân chủ không thể thực hiện được nếu thiếu pháp luật. Dân chủ là động lực, mục tiêu và tiền đề hoàn thiện của pháp luật. Trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân dân, chất lượng và hiệu quả các quy định pháp luật ở nước ta ngày càng được nâng cao.
Vai trò của pháp luật đối với đường lối chính sách của Đảng
Trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn. Mối quan hệ giữa pháp luật và đường lối của đảng là biểu hiện cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị. Pháp luật thể hiện đường lối của đảng theo đặc thù của mình, dưới dạng các quy định pháp luật, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá các hành vi xã hội, các hoạt động xã hội.
Vai trò của pháp luật đối với đạo đức, phong tục, tập quán và các loại quy phạm xã hội khác.
Vì cùng tham gia điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người nền giữa pháp luật và các quy phạm xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động mạnh mẽ đến nhau.
– Pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng vì cùng tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thực tiễn đã chứng minh, pháp luật và đạo đức chỉ có thể phát huy được vai trò của mình khi sử dụng kết hợp chặt chẽ, hợp lý với nhau. Đạo đức là cơ sở của pháp luật và cũng là điều kiện thực hiện pháp luật. Ngược lại, đạo đức muốn được giữ gìn, củng cố phải sử dụng công cụ pháp luật với vai trò ghi nhận và bảo vệ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vai trò của pháp luật đối với đạo đức và ngược lại ngày càng gia tăng. Xử sự theo pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội đã trở thành nguyên tắc pháp luật. Xu hướng hiện nay là pháp luật ngày càng ghi nhận nhiều hơn các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. Quy phạm đạo đức có vai trò làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa các hành vi. Pháp luật của nhà nước ta là một trong những hình thức bảo vệ, phát huy đạo đức, tạo điều kiện cho sự hình thành những quan niệm mới những chuẩn mực đạo đức mới, tiến bộ loại bỏ dần những quan niệm đạo đức cũ tiêu
cực.
– Pháp luật và tập quán, phong tục, các loại quy phạm xã hội khác
Pháp luật có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc nước ta. Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác đã quy định các tiền đề cho việc áp dụng và phát huy những mặt tích cực của tập quán, phong tục, truyền thống, trong đó có luật tục, hương ước.
Đồng thời pháp luật cũng có những quy định ngăn cấm thực hiện các tập quán lạc hậu, phản tiến bộ. Pháp luật quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, nghiêm cấm việc áp dụng những tập tục lạc hậu, vận động nhân dân bỏ dần những tập tục rườm rà, mê tín dị đoan gây lãng phí, thực hành tiết kiệm.