Hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam hiện nay đang dần trở nên phổ biến giúp doanh nghiệp thu hút thêm nguồn vốn trên thị trường quốc tế. Dưới đây là bài viết về vấn đề: Phân loại và đặc điểm của chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Mục lục bài viết
1. Phân loại, đặc điểm của chủ thể kinh doanh chứng khoán:
1.1. Phân loại chủ thể kinh doanh chứng khoán:
Hiện nay có nhiều cách để phân loại chủ thể kinh doanh chứng khoán, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chủ thể tạo hàng hóa cho thị trường. Nhìn chung thì chủ thể tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán được gọi là tổ chức phát hành chứng khoán. Đây là khái niệm để chỉ một tổ chức thực hiện quá trình và hoạt động chào bán chứng khoán trên thị trường dưới bất kỳ hình thức nào, có thể là chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng, hoặc thậm chí là chào bán dưới cả hai hình thức trên. chứng khoán hiện nay cũng có nhiều loại. Căn cứ theo tiêu chí quyền sở hữu chứng khoán đối với người phát hành thì có thể chia chứng khoán thành: chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Còn nếu căn cứ theo tiêu chí chủ thể phát hành thì có thể chia chứng khoán thành: chứng khoán doanh nghiệp và chứng khoán Chính phủ (hay còn gọi là chứng khoán nhà nước).
Thứ hai, chủ thể là nhà đầu tư chứng khoán. Đây là khái niệm để chỉ người đó bỏ vốn ra để mua chứng khoán phát hành với mục đích để sinh lời và mục đích thương mại. Căn cứ theo nhiều tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại chủ thể đầu tư chứng khoán thành nhiều loại khác nhau:
– Nếu căn cứ theo tính chuyên nghiệp thì có thể phân chia thành: nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp;
– Nếu căn cứ theo yếu tố quốc tịch thì có thể phân chia thành: nhà đầu tư chứng khoán trong nước và nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài;
– Nếu căn cứ theo tư cách chủ thể thì có thể phân chia thành: nhà đầu tư chứng khoán là cá nhân và nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức.
vậy thì có thể thấy, các nhà đầu tư chứng khoán là những chủ thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán với mục đích để tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận rằng lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy các nhà đầu tư cần phải lựa chọn cho mình những hình thức đầu tư phù hợp. Đối với các nhà đầu tư chứng khoán có tổ chức thì sẽ thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm trên thị trường nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán để đưa ra các quyết định đầu tư thông thái. Đầu tư thông qua hình thức tổ chức này sẽ có những ưu điểm đó là đa dạng hóa các danh mục đầu tư chứng khoán và các quyết định đầu tư sẽ được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Nhìn chung thì một trong những bộ phận quan trọng của tổ chức đầu tư chứng khoán đó là các công ty tài chính. Bên cạnh đó thì có các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành một trong những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán của mình.
Thứ ba, chủ thể là trung gian môi giới chứng khoán. Trung gian môi giới chứng khoán có thể là các công ty chứng khoán hoặc các ngân hàng thương mại. Công ty chứng khoán là một trong những loại hình công ty hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, công ty chứng khoán đầm nhận một hoặc nhiều hoạt động tài chính đó là bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán cũng như tư vấn đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán. Để có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình thì các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được cấp phép hoạt động bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Còn ngân hàng thương mại là chủ thể, có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hóa lợi nhuận đầu tư thông qua các hoạt động chứng khoán. Tuy nhiên thì các ngân hàng thương mại chỉ được phép đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán trong những giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá cả chứng khoán trên thị trường. Một số nước trên thế giới hiện nay cho phép ngân hàng thương mại thành lập các công ty con độc lập để có thể tiến hành kinh doanh hoạt động chứng khoán và thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán phù hợp với quy định và hạn chế rủi ro.
Thứ tư, chủ thể là cơ quan tổ chức thị trường chứng khoán. Cơ quan tổ chức thị trường chứng khoán có thể là Sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm Lưu ký chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán chính là chủ thể tổ chức thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán thường tập trung nơi mua bán các loại chứng khoán đầy đủ các điều kiện niêm yết theo quy định của pháp luật. Trung tâm Lưu ký chứng khoán tiến hành quản lý các chứng khoán chào bán ra công chúng và các chứng khoán giao dịch trên thị trường thứ cấp. Theo quy định hiện nay thì trung tâm Lưu ký chứng khoán sẽ cung cấp các dịch vụ đăng ký Lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán cũng như các dịch vụ khác có liên quan đến yêu cầu lưu ký chứng khoán theo nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Thứ năm, chủ thể là nhà tạo lập thị trường chứng khoán và chủ thể quản lý nhà nước. Nhà tạo lập thị trường chứng khoán được xem là các doanh nghiệp hoặc một tổ chức tiến hành mua bán một loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán qua đó với mục đích tạo ra một thị trường cho loại chứng khoán đó. Còn cơ quan quản lý nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, đó là Ủy ban chứng khoán Nhà nước
1.2. Đặc điểm của các chủ thể kinh doanh chứng khoán:
Nhìn chung thì các chủ thể kinh doanh chứng khoán sẽ mang những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ thể kinh doanh chứng khoán phải được thành lập và đăng ký hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi vì kinh doanh chứng khoán là một ngành nghề thương mại đặc thù theo quy định của pháp luật. Vì thế cho nên các chủ thể khi tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thỏa mãn một số điều kiện theo quy định của pháp luật nói chung và thỏa mãn một số điều kiện đặc thù về mặt tài chính cũng như đạo đức, phải thỏa mãn điều kiện về tư cách pháp lý, thậm chí là phải thỏa mãn cả những điều kiện về cơ sở vật chất và kĩ thuật để đảm bảo cho quá trình kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng để chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là chứng khoán. Chứng khoán được coi là giá trị động sản và các dịch vụ chứng khoán khác đi kèm. Nhìn chung thì đối tượng của các chủ thể kinh doanh chứng khoán đó chính là chứng khoán, bởi chứng khoán phản ánh rõ nét nhất tính chất nghề nghiệp của họ. Đây là những loại hàng hóa đặc biệt theo quy định của pháp luật mà chủ thể kinh doanh chứng khoán hoạt động chủ yếu với mục đích sinh lợi và thương mại, đặc điểm này dùng để phân biệt với các hoạt động kinh doanh của các chủ thể khác.
Thứ ba, chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ theo những nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán. Hiện nay pháp luật đã quy định rất nhiều nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán. Đó có thể là nguyên tắc công bằng và công khai, nguyên tắc minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Việc thể chế hóa bằng pháp luật những nguyên tắc này là những bảo đảm pháp lý cho sự vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia vào thị trường.
2. Chức năng và vai trò của công ty chứng khoán:
Về chức năng, công ty chứng khoán có chức năng cơ bản gồm:
– Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đếnnhững người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh);
– Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh);
– Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán moat cách dễ dàng);
– Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò tạo lập thị trường).
Về vai trò, có thể khái quát các vai trò của Công ty chứng khoán như sau:
Thứ nhất, vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán … Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Thứ hai, hoạt động cung cấp dịch vụ của công ty chứng khoán có ảnh hưởng tới tất cả các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, cụ thể:
– Đối với tổ chức phát hành: các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành cho các tổ chức phát hành, do đó các công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng trong việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng của các tổ chức phát hành nhằm thực hiện mục tiêu là huy động vốn thông qua đợt phát hành các chứng khoán ra công chúng. Ngoài ra, các công ty chứng khoán còn hỗ trợ chuyên môn thông qua tư vấn phát hành cho các tổ chức phát hành, cung cấp cho doanh nghiệp các giải pháp tổng hợp về vấn đề tài chính, cơ cấu tổ chức công ty, lập và đánh giá dự án, quản lý tài sản và định hướng đầu tư …
– Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Các công ty chứng khoán là công ty chuyên nghiệp trong việc thu thập và xử lý thông tin. Vì thế, sẽ chính xác hơn nếu như các công ty chứng khoán đánh giá các khoản đầu tư của khách hàng và tư vấn cho khách hàng về định hướng đầu tư của họ. Thị trường chứng khoán là một thị trường thường xuyên biến động về giá cả cũng như mức độ rủi ro cao. Vì thế, với một hoạt động chuyên nghiệp, các công ty chứng khoán sẽ giúp cho hoạt động của thị trường chứng khoán trở nên hiệu quả và ổn định hơn, giúp cho các nhà đầu tư xác định đúng giá trị của các chứng khoán. Đồng thời, qua hoạt động tư vấn, các công ty chứng khoán trở thành một kênh thông tin có hiệu quả đối với các nhà đầu tư như: thông tin về giá cả của các chứng khoán, thông tin thị trường, chính sách kinh tế xã hội… một cách chính xác và kịp thời tới các nhà đầu tư. Qua việc lưu ký và đăng ký chứng khoán, các công ty chứng khoán có vai trò quản lý chứng khoán hộ khách hàng, do đó sẽ dễ dàng trách được các rủi ro về mất hay hỏng chứng khoán, rủi ro về chứng khoán không còn giá trị lưu hành… Nhờ đó kịp thời đưa ra các quyết đinh xử lý, đảm bảo quyền lợi của khách hàng.
– Đối với cơ quan quản lý thị trường: Các cơ quan quản lý thị trường có mục tiêu là quản lý và bình ổn thị trường, giúp cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Các công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng là cung cấp các thông tin cho các cơ quan quản lý để họ thực hiện tốt mục tiêu đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này là do các công ty chứng khoán là công ty hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường nên các thông tin mà họ có được là các thông tin nhanh nhất và chính xác nhất vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành, vừa là người phát hành chứng khoán ra công chúng thông qua các hoạt động bảo lãnh và đại lý bảo lãnh phát hành, vừa là trung tâm mua và bán các chứng khoán. Do vậy, các thông tin phải được công khai trên thị trường dưới sự giám sát của các nhà quản lý thị trường. Việc công khai các thông tin vừa là quy định của hệ thống pháp luật vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì các công ty chứng khoán cần phải minh bạch trong hoạt động của mình.
3. Một số hạn chế trong hoạt động kinh doanh chứng khoán hiện nay:
Thứ nhất, là trong hoạt động môi giới. Hoạt động môi giới chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản là nhận và truyền lệnh cho các nhà đầu tư, chưa kết hợp nhiều hoạt động tư vấn. Hình thức đặt lện qua điện thoại và Internet còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư sử dụng được dịch vụ này còn bị giới hạn do hệ thống thông tin chưa đáp ứng được hết cho tất cả các nhà đầu tư.
Thứ hai, là trong hoạt động tự doanh. Các thị công ty chứng khoán chưa đảm đương được vai trò bình ổn giá chứng khoán cũng như vai trò nhà tạo lập thị trường. Danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán tuy đã có sự đa dạng song mức độ phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư chưa được thiết lập. Các công ty tập trung đầu tư cổ phiếu trong khi số lượng công ty chứng khoán triển khai tự doanh trái phiếu còn ít.
Thứ ba, là trong hoạt động tư vấn tài chính. Tư vấn chỉ mang hình thức cung cấp thông tin, nội dung và hình thức tư vấn còn sơ sài, chưa có nhiều các bài phân tích, đánh giá một cách sâu sắc về hoạt động của tổ chức phát hành hay diễn biến thị trường.
Thứ tư, là trong các hoạt động khác. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu chưa niêm yết chưa được phát triển mạnh. Các công ty chứng khoán chưa tham gia vào việc bình ổn giá chứng khoán sau khi phát hành. Chưa tách bạch giữa các hoạt động có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích của khách hàng như dùng tiền của khách hàng tiến hành hoạt động tự doanh. Chất lượng dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công chúng đầu tư, đặc biệt là trong vấn đề công bố thông tin, thực hiện lệnh cho khách hàng
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Chứng khoán năm 2018.