Phân biệt Tội buôn bán hàng cấm với một số tội phạm khác: Tội sản xuất hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, Tội buôn lậu, Tội buôn bán hàng giả.
Tội buôn bán hàng cấm là một tội độc lập trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nên có những dấu hiệu đặc trưng chung của nhóm tội này như khách thể chính là trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên Tội buôn bán hàng cấm có những đặc trưng riêng cần phân biệt với một số tội danh khác. Cụ thể như sau:
Mục lục bài viết
1. Phân biệt Tội buôn bán hàng cấm với Tội sản xuất hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:
Các tội sản xuất hàng cấm, tội tàng trữ, tội vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 190, Điều 191 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) cũng là những tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Cũng giống như Tội buôn bán hàng cấm, các tội này có khách thể của tội phạm cùng xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý kinh tế, có cùng đối tượng tác động cùng là hàng cấm và mức định lượng, định khung của các loại tội phạm này đối với từng loại hàng cấm tương đồng với nhau; Chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại; Mặt chủ quan của tội phạm đều được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích phạm tội là vụ lợi.
Về kỹ thuật lập pháp, theo BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) hai tội này cùng được quy định 05 khoản trong một điều luật. Trong đó gồm khoản 1 là khung cơ bản; khoản 2 và 3 là tình tiết định khung tăng nặng; khoản 4 là hình phạt bổ sung đối với cá nhân; khoản 5 là quy định cụ thể về khung cơ bản, khung tăng nặng, hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại.
Dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa các tội này là mặt khách quan của tội phạm.
+ Buôn bán hàng cấm là hành vi mua đi bán lại hàng cấm dưới bất kỳ hình thức nào như mua bán thông thường, đổi, thanh toán công nợ bằng hàng cấm. Không đòi hỏi phải có đầy đủ cả hai hành vi mua và bán hàng cấm mà chỉ cần có một trong hai hành vi đó người thực hiện hành vi buôn, bán cũng phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý về Tội buôn bán hàng cấm.
+ Sản xuất hàng cấm là hành vi làm ra hàng cấm, bao gồm: việc làm mới hoàn toàn; lắp ráp từ những bộ phận của hàng hóa theo tính năng tác dụng của hàng hóa đó. Người sản xuất có thể tham gia vào cả quá trình làm ra hàng cấm hoặc chỉ tham gia vào cả quá trình làm ra hàng cấm hoặc chỉ tham gia vào một công đoạn của quá trình làm ra hàng cấm.
+ Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý.
+ Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa điểm này đến địa điểm khác bằng cứ đường nào (đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện).
Về mức hình phạt: BLHS quy định hình phạt của Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nhẹ hơn so với hình phạt của Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Cụ thể là mức khởi điểm và mức cao nhất trong từng khung hình phạt (kể cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung) của Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nhẹ hơn mức khởi điểm và mức cao nhất trong từng khung hình phạt của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Ví dụ khoản 1 của Điều 190 và khoản 1 Điều 191 cùng quy định về khung cơ bản, có định lượng về hàng cấm tương đồng nhau nhưng hình phạt của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, còn còn hình phạt của tội sản xuất, buôn bán hàng cấm là phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phân biệt Tội buôn bán hàng cấm với Tội buôn lậu:
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Về dấu hiệu pháp lý hai tội này giống nhau về chủ thể của tội phạm (cá nhân hoặc pháp nhân thương mại) và mặt chủ quan của tội phạm (tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý và vì mục đích vụ lợi).
Khách thể và mặt khách quan là hai yếu tố để phân biệt sự khác nhau giữa hai tội này. Khách thể của Tội buôn lậu là chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước đối với hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc di vật, cổ vật … Đối tượng tác động của Tội buôn bán hàng cấm là hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh. Đối tượng tác động của Tội buôn lậu là hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, hoặc di vật, cổ vật Như vậy đối tượng tác động của Tội buôn lậu rộng hơn so với đối tượng tác động của Tội buôn bán hàng cấm. Mặt khách quan của tội buôn lậu thể hiện ở hành vi buôn bán trái phép hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá, hàng cấm qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại. Tội buôn lậu hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi vận chuyển các đối tượng tác động nêu trên qua biên giới, qua khu phi thuế quan. Trường hợp khi hàng hóa đã vào nội địa mà bị phát hiện thì vẫn cấu thành Tội buôn lậu. Buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hay ngược lại được hiểu là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại để trao đổi trái với các quy định của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa: vận chuyển hàng hóa qua cửa khẩu mà không khai báo hoặc khai báo hàng hoá một cách gian dối hoặc giấu giếm hàng hoá, tiền tệ… hoặc sử dụng các loại giấy tờ giả mạo của các cơ quan có thẩm quyền; vận chuyển hàng hoá bí mật, lén lút không qua cửa khẩu để trốn tránh sự phát hiện của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Hải quan, Bộ đội biên phòng, các lực lượng tuần tra kiểm soát khác),
Hành vi này có thể được thực hiện bằng đường bộ, đường thuỷ, đường không hoặc bằng đường bưu điện..
Về mức hình phạt đối với Tội buôn lậu nặng hơn so với hình phạt của Tội buôn bán hàng cấm. Điều 188 Bộ luật Hình sự quy định 05 Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội và 06 Khung hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội buôn lậu. Mức hình phạt tù có thời hạn của Tội buôn lậu từ 06 tháng đến 20 năm, đối với pháp nhân phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng. Trong khi đó Điều 191 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội và 05 khung hình phạt đối với pháp nhân thương mại. Mức hình phạt tù có thời hạn của Tội buôn bán hàng cấm từ 01 năm đến 15 năm, đối với pháp nhân thương mại phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng.
3. Phân biệt Tội buôn bán hàng cấm với Tội buôn bán hàng giả:
Tội buôn bán hàng giả được quy định tại Điều 192 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điểm giống nhau của hai tội này là chủ thể của tội phạm (người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại) và mặt chủ quan của tội phạm (tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý và vì mục đích vụ lợi).
Khách thể và mặt khách quan là hai yếu tố để phân biệt sự khác nhau giữa hai tội này. Khách thể trực tiếp của Tội buôn bán hàng giả là xâm phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý thị trường, xâm phạm lợi ích người tiêu dùng, quyền được bảo hộ của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh đúng quy định pháp luật. Đối tượng tác động của tội phạm là hàng giả (trừ các loại hàng giả thuộc phạm vi quy định của Điều 193, Điều 194 và Điều 195 BLHS năm 2015 bao gồm hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi).
“Hàng giả” bao gồm hàng giả về chất lượng và công dụng; hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, bao bì hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa; Giả mạo về sở hữu trí tuệ và giả về các loại tem, nhãn, bao bì hàng hóa (
Về Hình phạt của Tội buôn bán hàng giả nhẹ hơn so với hình phạt của Tội buôn bán hàng cấm. Cụ thể là mức cao nhất trong từng khung hình phạt chính của Tội buôn bán hàng giả và Tội buôn bán hàng cấm tương đồng nhau nhưng mức hình phạt khởi điểm quy định trong tình tiết định khung tăng nặng của Tội buôn bán hàng giả là 07 năm tù (khoản 3 Điều 192 BLHS năm 2015) còn của Tội buôn bán hàng cấm là 08 năm tù (khoản 3 Điều 190 BLHS năm 2015).