Luật Thương mại 2005 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về mua bán hàng hoá nói riêng.
Luật Thương mại 2005 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là
* Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản:
Thứ nhất, về đối tượng, HĐMBHH trong thương mại có đối tượng là hàng hoá. Tuy nhiên không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồmmáy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại 2005). Luật Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
Những vật gắn liền với đât đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
Còn đối tượng của HĐMBTS rộng hơn là các loại tài sản quy định trong Điều 162 “Bộ luật dân sự 2015” : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản được phép giao dịch.
Thứ hai, về chủ thể. chủ thể trong HĐMBHH chủ yếu là thương nhân. Khái niệm về thương nhân được đề cập đến trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 bao gồm : tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của HĐMBHH có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong HĐMBHH quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH. Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ HĐMBHH chỉ phải tuân theo Luật Thương mại 2005 khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại 2005.
Trong khi đó, chủ thể tham gia HĐMBTS có thể là mọi tổ chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có sự mở rộng hơn rất nhiều so với chủ thể trong HĐMBHH.
Thứ ba, về mục đích. HĐMBHH trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm.
HĐMBTS lại không nhất thiết là có mục đích kinh doanh mà có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau như : tiêu dùng, tặng, cho, làm từ thiện hoặc đơn giản là vì sở thích…Sự khác nhau này là do yếu tố chủ thể quyết định. Vì chủ thể chủ yếu của HĐMBHH là thương nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể không nhắc đến lợi nhuận, hoạt động chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhiận, không có lợi nhuận họ không thể tồn tại lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi nữa.
Thứ tư, về hình thức. Ta hầu như không thấy sự khác biệt nào khi so sánh Điều 401 về hình thức hợp động dân sự của “Bộ luật dân sự 2015” với Điều 24 về hình thức HĐMBHH của Luật Thương mại 2005. Chúng đều có thể xác lập bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh chúng ta thấy rằng, đối tượng là hàng hoá thường mang số lượng nhiều, giá trị lớn và để đảm bảo lợi ích, tránh xảy ra tranh chấp không đáng có thì hình thức hợp đồng bằng văn bản hay được ưu tiên do những ưu điểm vốn có của nó (minh bạch, rõ ràng, có thể dễ dàng đưa ra làm bằng chứng khi có tranh chấp).
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ năm, về nội dung. Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS. Có rất nhều sự tiếp tục tạo nên sự khác biệt như :
Khó có thể tìm thấy điều luật cụ thể trong “Bộ luật dân sự 2015” về nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của HĐMBTS, nhưng trong Luật Thương mại được đề cập trong Điều 46 như sau:
“1. Bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ với hàng hoá đã bán.
Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kĩ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sử hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua.”
Điểm đặc biệt hơn, giá không phải là nội dung bắt buộc để HĐMBHH có hiệu lực. Bởi ngay cả khi không có sự thoả thuận về giá hàng hoá, không có sự toản thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kì chỉ dẫn nào khác về giá thì giá của hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị trường địa lí, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá (Điều 52 Luật Thương mại 2005). Trong HĐMBTS thường mang tính chất nhỏ, lẻ thì việc toản thuận về giá mang ý nghĩa rất lớn. Để tránh xảy ra tranh chấp các chủ thể, đặc biệt là các thương nhân phải rất chú ý điểm khác biệt này trong kinh doanh.