Phân biệt án treo với các hình phạt: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Án treo so với các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự Việt Nam có những điểm cần phân biệt như:
Mục lục bài viết
1. Về bản chất:
Cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam. Án treo không phải là một loại hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Như vậy, án treo không phải là hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, trong thời gian thử thách hình phạt vẫn lơ lửng trên đầu, nếu tái phạm thì phải ngồi tù; còn cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn thì người bị kết án đang chấp hành án, thời hạn hình phạt rút ngắn từng ngày.
2. Về điều kiện áp dụng:
– Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. (Điều 34 BLHS năm 2015).
– Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. (Khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015).
– Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. (Điều 38 BLHS năm 2015).
– Án treo áp dụng đối với người vi phạm pháp luật ở mức độ ít nghiêm trọng, bị xử phạt tù không quá 03 năm; có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được; không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS; nếu có 01 tình tiết tăng nặng TNHS thì phải có từ 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS. Án treo có kèm theo thời gian thử thách và trong thời gian này, nếu người bị án treo phạm tội mới, thì
3. Về hình phạt bổ sung:
– Cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt chính do đó có thể áp dụng thêm một hoặc nhiều hình phạt bổ sung.
– Cải tạo không giam giữ: Đối với cải tạo không giam giữ nếu người phạm tội thực hiện tội phạm mới trong thời gian thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì họ cũng không bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của hình phạt trước. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
– Tù có thời hạn: Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Người bị phạt tù có thời hạn có thể áp dụng hình phạt bổ sung.
– Án treo: Có thể áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Án treo không quy định về việc phải thực hiện 01 số công việc lao động phục vụ công ích, cũng như người bị kết án không bị trừ một phần thu nhập như hình phạt cải tạo không giam giữ.
4. Về hậu quả pháp lý:
– Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Toà án tuyên án đối với người bị kết án. Cảnh cáo không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của người bị kết án mà chỉ lên án về tinh thần đối với họ do đó nó chỉ gây tổn thất về tinh thần với người bị kết án.
– Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.
– Án treo và cải tạo không giam giữ thì người bị kết án không phải chấp hành án tại các cơ sở giam giữ của lực lượng thi hành án hình sự. Cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó. Qua đó, có thể hiểu người được Tòa án cho hưởng án treo, tuy cũng là hình phạt tù có thời hạn nhưng họ vẫn được đi lại, sinh hoạt ngoài cộng đồng và tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây chính là điểm quan trọng để thấy rằng trường hợp người được hưởng án treo có nhiều sự “ưu ái” hơn trường hợp phải chấp hành án tại trại giam.
– Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một chế định pháp lý mới quy định tại Điều 66 BLHS năm 2015, áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt tù đáp ứng đủ các điều kiện do điều luật này quy định. Đây là một vế của chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự. Cùng với án treo, cải tạo không giam giữ và các chế định nhân đạo khác trong BLHS tạo nên một chính sách pháp luật hình sự nhân đạo, văn minh. Tuy nhiên, hai chế định này khác nhau ở chỗ: Người được áp dụng án treo được tự do ngay sau khi Tòa tuyên án, còn tha tù trước thời hạn được tự do sau quá trình thi hành án phạt tù.
Qua những phân biệt trên có thể thấy rằng tính chất giáo dục của án treo dường như có tác dụng hơn đối với hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Bởi lẽ, án treo vừa có tính chất trừng phạt, răn đe, đồng thời cũng vừa có tính chất nhân đạo, khoan hồng, tạo điều kiện tốt hơn cho người phạm tội tự cải tạo mình thành người có ích cho xã hội hơn.