Phạm vi áp dụng quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Ý nghĩa của quyền được suy đoán vô tội.
Mục lục bài viết
1. Phạm vi áp dụng quyền được suy đoán vô tội:
Để xác định một người là có tội phải có đồng thời hai điều kiện:
1) Người bị buộc tội đã được chứng minh tội phạm theo trình tự luật định;
2) Có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì người bị buộc tội không được coi là có tội. Như vậy, quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội luôn gắn liền và tồn tại song song với sự buộc tội.
Đây là cơ sở để xác định phạm vi áp dụng quyền được suy đoán vô tội về không gian, thời gian, chủ thể và đối tượng áp dụng. Cụ thể:
Phạm vi áp dụng quyền được suy đoán vô tội về không gian: Phạm vi về không gian trả lời cho câu hỏi: Quyền được suy đoán vô tội được áp dụng đối với lĩnh vực nào của tư pháp (hình sự hay phi hình sự)? Tác giả cho rằng, suy đoán vô tội liên quan đến vấn đề xác định một người có tội hay không có tội. Do đó, quyền được suy đoán vô tội chỉ có thể được áp dụng đối với lĩnh vực tư pháp duy nhất là TTHS, còn các lĩnh vực tư pháp phi hình sự (dân sự, hành chính, kinh tế) chỉ giải quyết các vi phạm, tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, … không liên quan đến vấn đề có tội hay không có tội nên không thể áp dụng quyền được suy đoán vô tội.
* Phạm vi áp dụng quyền được suy đoán vô tội về thời gian: Phạm vi về thời gian trả lời cho câu hỏi: Quyền được suy đoán vô tội được áp dụng đối với các giai đoạn nào của quá trình TTHS? suy đoán vô tội được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS và trong một số trường hợp, quyền được suy đoán vô tội còn được áp dụng đối với cả giai đoạn tiền tố tụng trong trường hợp bắt giữ người bị tình nghi và cả khi bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp bản án kết tội bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Quá trình TTHS bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can có nghĩa họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm này và trong các giai đoạn tiếp theo cho đến khi bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật với tư cách là bị can, bị cáo, họ luôn có quyền được suy đoán vô tội. Người bị tình nghi bị bắt, bị tạm giữ, mặc dù chưa có văn bản tố tụng chính thức buộc tội nhưng việc áp dụng một, một số biện pháp cưỡng chế đã hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ thì ở mức độ nhất định đã thể hiện sự buộc tội. Vì vậy, pháp luật cũng coi người bị tình nghi là người bị buộc tội và từ thời điểm bị bắt, bị tạm giữ họ đương nhiên có quyền được suy đoán vô tội và các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm coi họ là người không có tội trong suốt quá trình TTHS cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của
* Phạm vi chủ thể áp dụng quyền được suy đoán vô tội: Phạm vi chủ thể áp dụng quyền được suy đoán vô tội không chỉ bao gồm các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng mà cả các chủ thể khác, bao gồm: cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông,
Khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật thì các chủ thể trên đều phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử với người bị buộc tội như người không có tội.
suy đoán vô tội là quyền con người và cũng là quyền cơ bản của công dân một khi người đó bị buộc tội. suy đoán vô tội là bắt buộc không chỉ đối với chủ thể tiến hành tố tụng và áp dụng đối với cả các chủ thể khác. Các hình thức thể hiện về sự cố ý buộc tội đối với người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trước khi có bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật đều là vi phạm quyền được suy đoán vô tội. Uỷ ban quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc đã cảnh báo sự vi phạm của các cơ quan hữu trách trong việc không thực hiện việc hạn chế theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế năm 1966: “…Mọi cơ quan chức năng có nghĩa vụ hạn chế phán quyết trước về kết quả của phiên toà”.
* Phạm vi đối tượng có quyền được suy đoán vô tội: Ai có quyền được suy đoán vô tội? Đối tượng có quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn bởi sự buộc tội, bất kỳ người nào. Sự buộc tội có thể xuất hiện cả ở giai đoạn tiền tố tụng (đối với trường hợp bắt, tạm giữ người bị tình nghi) và cả trong giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và cho đến khi có bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật. Quyền được suy đoán vô tội được áp dụng đối với “người bị buộc tội” bao gồm: người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra, trong trường hợp Bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) thì người bị kết án lại được áp dụng quyền được suy đoán vô tội bởi lẽ việc chứng minh tội phạm sẽ được xem xét lại tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Ý nghĩa của quyền được suy đoán vô tội:
Quyền được suy đoán vô tội được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, pháp luật của các quốc gia đã thừa nhận và thể hiện suy đoán vô tội, đây là một trong những thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người trong TTHS, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong khoa học pháp lý TTHS và trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quyền được suy đoán vô tội có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng được thể hiện ở các phương diện sau:
Về chính trị: Quyền được suy đoán vô tội là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế năm 1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật TTHS của các quốc gia. Quyền được suy đoán vô tội xác lập, củng cố, duy trì và bảo vệ quyền tự do, bình đẳng của con người, của công dân trong nhà nước pháp quyền. Quyền được suy đoán vô tội bảo đảm an toàn pháp lý cho mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước và xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc bảo vệ quyền con người, bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Về lập pháp: Quyền được suy đoán vô tội được cụ thể hóa tại Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế năm 1966 của Liên Hợp Quốc. Với tư cách là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản, quan trọng trong pháp luật TTHS, suy đoán vô tội có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện các chế định, các quy phạm của luật TTHS nói riêng và hoạt động lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung.
Về mặt thực tiễn: Quyền được suy đoán vô tội có ý nghĩa trong việc định hướng và chỉ đạo hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. TTHS là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Trong TTHS, quyền con người dễ bị xâm phạm nhất từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, việc nắm vững quy định về suy đoán vô tội sẽ giúp cho người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng tránh được sự xâm phạm quyền được suy đoán vô tội. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ sở để có được định hướng cơ bản, khoa học trong việc phát hiện, xử lý tội phạm thể hiện trước mỗi vụ án cụ thể cần phải có thái độ, hành động khách quan, thận trọng. Việc áp dụng đúng quyền được suy đoán vô tội trong hoạt động TTHS đảm bảo sự công bằng trong xã hội, củng cố niềm tin của công dân đối với nhà nước pháp quyền.
Đối với công dân: Trước một hệ thống pháp luật tố TTHS vô cùng đồ sộ và không ít những quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, khó hiểu, còn có sự chồng chéo thì không thể đòi hỏi công dân phải hiểu biết tường tận, nắm rõ được từng quy phạm pháp luật. Để tự bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, tự do của mình đòi hỏi mỗi người dân cần nắm được các quyền mà pháp luật quy định. Đây cũng là ý nghĩa mà quyền được suy đoán vô tội mang lại đối với mỗi công dân trong lĩnh vực TTHS.
Về mặt khoa học: Việc nghiên cứu về suy đoán vô tội trong TTHS đều tìm thấy những tri thức về trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị và mức độ văn minh. Đồng thời việc nghiên cứu sẽ chỉ ra được sự phù hợp giữa các lĩnh vực kinh tế – chính trị – xã hội và pháp luật. Trên cơ sở đó giúp hoàn thiện thể chế kinh tế – chính trị đảm bảo sự phù hợp. Mặt khác, việc nghiên cứu quyền được suy đoán vô tội còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển các quy định, chế định, các quyền và nguyên tắc khác trong TTHS.