Đa số các chùa ở Việt Nam thường thờ hai tượng có khuôn mặt Thiện và Ác. Đây là hai vị Hộ pháp được tạc tượng theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm viên ngọc, vị kia tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi. Vậy Ông Thiện và ông Ác là ai? Ý nghĩa của ông Thiện ông Ác?
Mục lục bài viết
1. Ông Thiện là ai?
Ông Thiện chính là Vi Đà Bồ Tát. Người nguyên là thiên thần Thất Kiện Đà của đạo Bà La Môn, là con trai của thần Hộ pháp Phật giáo Đại Tự Tại Thiên, sau đó trở thành thần Hộ pháp của Phật giáo. Trong hàng ngũ những vị thiên thần Hộ pháp thì Vi Đà nổi danh bởi tài năng chạy nhanh như bay. Người đời truyền tai nhau rằng sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, chư Thiên thần và chúng Vương bàn về việc hỏa thiêu di thể, nhặt Xá lợi thờ trong tháp. Lúc này Đế Thích Thiên cầm bình thất bảo đến chỗ thiêu để lấy Xá lợi vì trước kia Vi Đà Bồ Tát đã được Đức Phật chấp thuận cho một chiếc răng đem về để dựng tháp thờ. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát nấp bên người Đế Thích Thiên, thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm răng Phật. Vi Đà Tôn Thiên trông thấy nhanh như bay đuổi theo bám sát, nhanh như tia chớp, trong nháy mắt đã Ngài bắt được quỷ La Sát tống vào ngục, trả lại răng Phật cho Đế Thích Thiên, được chư Thiên khen ngợi. Kể từ đó trở về sau, Vi Đà Bồ Tát được cho là có thể xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp (stupa) của Phật Tổ (chứa xá lợi Phật). Từ lúc đó cho đến mãi sau này, hình tượng Vi Đà được song hành cùng linh tháp chứa Xá lợi, mang ý nghĩa bảo vệ an toàn cho Đức Phật.
2. Ông Ác là ai?
Ông Ác chính là Tiêu diện đại sĩ. Ngài là vị Bồ Tát chuyên đi hàng phục yêu ma quỷ quái, cứu giúp chúng sinh. Hóa thân của ngài Bồ Tát Quan Thế Âm. Theo nhiều cách gọi khác nhau, Tiêu diện đại sĩ còn được dân gian gọi là Tiêu Diện Đại Quỷ Vương, Diện Nhiên Đại Sĩ, Diện Nhiên Quỷ Vương, Diện Nhiên; không chỉ thế, người đời thường gọi là Ông Đại Sĩ, Đại Sĩ Vương; là vua của loài Ngạ Quỷ có khuôn mặt đỏ, hay khuôn mặt bốc cháy; là vị thần nổi tiếng của Phật Giáo cũng như Đạo Giáo.
Diệm Khẩu Quỷ Vương cũng là một tên gọi khác của vị thần này, bởi miệng Ngài luôn bốc cháy lửa và cổ họng nhỏ như cây kim,có thân hình gầy ốm do vì đời trước tham lam, bùn xỉn, keo kiệt do đó tạo thành hình dạng như vậy.
Vị quỷ vương này đã thống lãnh được tất cả chúng Ngạ Quỷ và người đời cho rằng là Hóa Thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 16, No. 318) có nêu rõ điều này: “Du Già Diệm Khẩu Tiêu Diện Quỷ Vương, tức Quan Âm Đại Sĩ sở hóa, Tiêu Diện Quỷ Vương trong khoa Du Già Diệm Khẩu là do Quan Âm Đại Sĩ hóa hiện).”
Đạo Giáo gọi vị này là U Minh Giáo Chủ Minh Ty Diện Nhiên Quỷ Vương Giám Trai Sứ Giả Vũ Lâm Đại Thần, tôn xưng là Phổ Độ Chơn Quân; thế gian thường gọi là Ông Phổ Độ.
3. Ý nghĩa của ông Thiện ông Ác:
Dân gian thường gọi bằng cái tên: Ông thiện thần và Ông ác thần. Đây là hai vị hộ pháp, vị thứ nhất với trang phục là một bộ áo giáp, tay cầm ngọc bội; người còn lại ở tư thế đứng hoặc ngồi mang theo vũ khí.
Hình tượng của hai vị thần mang lại những ý nghĩa thâm trầm, cao siêu bởi lòng từ bi trong nhà Phật lúc nào cũng đem lại sự an lạc, bình an cho tất cả mọi người.
Vị thần Thiện sẽ tác động vào tâm con người để làm điều lành, ủng hộ chùa chiền và người tu hành tích đức. Vị thần đối lập là vị thần trừng phạt tội lỗi; trừng trị những kẻ có tâm ác hại Phật pháp. Ở mỗi chùa đều thờ hai pho tượng như hai biểu tượng biện chứng của thiện ác luôn thể hiện sự tồn tại song song như nhau của thiện và ác vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vậy, điều này giúp con người tránh xa khỏi những điều ác, tội lỗi để dần hướng đến những điều thiện lành trong cuộc đời.
Có thể nói, đó là một hình thức giáo dục nhân văn sâu sắc, khuyên nhủ mỗi người hãy sống tốt với nhau, đừng có tâm hãm hại người khác, hay gây đau khổ cho bất kỳ ai. Người làm việc thiện sẽ được thiện thần phù hộ; nếu không, những kẻ ác sẽ bị trừng phạt bởi vị thần đối diện.
“Quan điểm này mang ý nghĩa nhắc nhở con người nên sống bằng tâm thiện lương. Theo lời Phật dạy, hộ pháp không chỉ có các vị thần linh phù trợ, mà còn bao gồm tất cả những người có tâm ủng hộ Phật pháp trường tồn (ngăn ác, khuyến thiện). phát triển thiện pháp), làm lợi ích cho tất cả chúng sinh trong thế gian v.v., tất cả đều được xem như những vị hộ pháp của Đức Phật.
4. Nguồn gốc về Hộ pháp của Phật giáo:
Hộ Pháp là hóa thân của một vị Phật hay một vị Bồ Tát với nhiệm vụ chính là đẩy lùi những chướng ngại bên trong và bên ngoài ngăn cản hành giả đạt được chứng ngộ tâm linh, và thu xếp mọi điều kiện cần thiết cho sự thực hành của họ.
Ở Tây Tạng, mỗi tu viện đều có Hộ pháp riêng, nhưng truyền thống không bắt đầu ở Tây Tạng; các nhà Đại thừa của Ấn Độ cổ đại cũng dựa vào các Hộ pháp để loại bỏ các chướng ngại và hoàn thành các ước nguyện tâm linh của họ.
Mặc dù có một số vị thần thế gian thân thiện với Phật giáo và cố gắng giúp đỡ các học viên, nhưng họ không phải là những Hộ pháp thực sự. Những vị thần thế gian như vậy có thể làm tăng sự giàu có bên ngoài của các hành giả và giúp họ thành công trong các hoạt động thế tục của họ, nhưng họ không có trí tuệ hay năng lực để bảo vệ sự phát triển của Giáo Pháp trong tâm thức của một hành giả.
Chính Pháp bên trong này – những kinh nghiệm về lòng đại bi, bồ đề tâm, trí tuệ chứng ngộ tánh không, v.v. – là điều quan trọng nhất và cần được bảo vệ; điều kiện bên ngoài có tầm quan trọng thứ yếu.
Mặc dù động lực của họ là tốt, nhưng các vị thần thế gian thiếu trí tuệ và vì vậy đôi khi sự giúp đỡ bên ngoài mà họ ban cho thực sự cản trở việc đạt được các chứng ngộ Pháp đích thực. Nếu họ không có sự chứng ngộ Pháp, làm sao họ có thể là Hộ Pháp?
Do đó, rõ ràng là tất cả những Hộ Pháp thực sự phải là hóa thân của chư Phật hoặc Bồ tát. Những vị Hộ pháp này có quyền năng to lớn để bảo vệ Phật pháp và những người thực hành Phật pháp, nhưng mức độ mà chúng ta nhận được sự giúp đỡ từ họ phụ thuộc vào niềm tin và niềm tin của chúng ta vào họ. Để nhận được sự che chở đầy đủ của họ, chúng ta phải nương tựa vào họ với lòng sùng mộ liên tục, không lay chuyển.
5. Hộ Pháp giúp chúng ta như thế nào?
Do đó, thực hành Hộ Pháp tạo ra công đức và kết nối với chúng sinh giác ngộ này. Điều này lại tạo ra những nguyên nhân để Hộ Pháp đến giúp đỡ chúng ta và để chúng ta nhận được sự giúp đỡ của Ngài. Một vị Hộ Pháp giác ngộ có lòng từ bi trọn vẹn và luôn sẵn sàng đến trợ giúp chúng ta nhưng Ngài bị cản trở bởi sự thiếu công đức của chúng ta. Nói cách khác, mình cần góp phần tạo công đức để Ngài có thể giúp đỡ mình .
Trước tiên người ta phải hiểu công đức là gì trước khi bắt đầu tạo ra nó. Một số người lầm tưởng công đức là nghiệp tốt. Trên thực tế, thiện nghiệp không phải là công đức; có một sự khác biệt lớn. Nghiệp tốt được tạo ra thông qua các hành động có lợi bình thường trong khi công đức được thu thập thông qua các hành động có lợi được cống hiến cho các mục đích đạo đức, chẳng hạn như đạt được Giác ngộ viên mãn.
Công đức cứ tăng mãi không bao giờ cạn, thiện nghiệp sau khi thành quả sẽ cạn. Một sự tương tự để minh họa điều này là giữ tiền ở nhà so với giữ tiền trong ngân hàng. Tiền trong nhà cuối cùng sẽ được sử dụng hết trong khi tiền tiết kiệm trong ngân hàng sẽ nhân lên nhờ lãi suất. Như vậy, gửi tiết kiệm tại nhà là tạo thiện nghiệp và gửi tiết kiệm ở ngân hàng là tạo phước.
Từ việc hiểu được công đức, chúng ta có thể tích lũy nó thông qua việc nương tựa, cúng dường, quán tưởng và trì tụng thần chú, các bài cầu nguyện và các bài kệ của Hộ Pháp. Thông qua việc tạo ra các công đức, Hộ Pháp có thể kích hoạt thiện nghiệp của chúng ta và cũng kìm hãm các ác nghiệp nặng nề không chín muồi. Đức Hộ Pháp không tiêu trừ ác nghiệp của chúng ta mà tạm thời cầm giữ nó để chúng ta có cơ hội tịnh hóa cho đến khi nghiệp giảm bớt hoặc hoàn toàn tịnh hóa. Đây là cách một vị Hộ Pháp giác ngộ bảo vệ chúng ta.