Để có thể bảo lãnh bị can/bị cáo tại ngoại ra bên ngoài, người bảo lãnh bắt buộc cần phải nộp đơn tới cơ quan có thẩm quyền để xin được bảo lãnh, đồng thời phải đóng một khoản tiền để cho bị can được tại ngoại. Vậy nộp tiền bảo lãnh tại ngoại có được trả lại hay không?
Mục lục bài viết
1. Nộp tiền bảo lãnh tại ngoại có được trả lại không?
Pháp luật hiện nay đã quy định cụ thể về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 122 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Cụ thể như sau:
– Đặt tiền để bảo đảm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự là biện pháp ngăn chặn thay thế cho biện pháp tạm giam đối với các bị can. Căn cứ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và tình trạng tài sản của các bị can và bị cáo, cơ quan có thẩm quyền điều tra, viện kiểm sát và tòa án hoàn toàn có thể ra quyết định cho các bị can hoặc người thân thích của bị can đặt tiền để bảo đảm;
– Bị can hoặc bị cáo được đặt tiền cần phải làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cơ bản sau:
+ Cần phải có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, ngoại trừ trường hợp xuất phát vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan nằm ngoài ý chí chủ quan của con người;
+ Không được phép thực hiện hành vi bỏ trốn, hoặc tiếp tục phạm tội trong quá trình bảo đảm;
+ Không được thực hiện các hành vi mua chuộc, cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp các loại tài liệu và giấy tờ sai sự thật, giấy tờ giả mạo, không tiêu hủy hoặc có hành vi giả mạo tài liệu chứng cứ, giả mạo đồ vật của vụ án, có hành vi tẩu tán các tài sản liên quan đến vụ án, không được phép thực hiện hành vi đe dọa hoặc không chế hoặc trả thù đối với những người làm chứng, bị hại hoặc người tố giác tội phạm và những người thân thích của những đối tượng này. Trường hợp bị can hoặc bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan nêu trên thì hoàn toàn sẽ bị tạm giam lại, đồng thời số tiền đã đặt sẽ bị tịch thu và nộp vào ngân sách nhà nước.
– Thời hạn đặt tiền bảo đảm theo quy định của pháp luật sẽ không được phép vượt quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Thời hạn đặt tiền đối với những người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù trên thực tế. Các bị can và bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan theo phân tích nêu trên thì tòa án, viện kiểm sát sẽ cần phải có trách nhiệm và nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền mà họ đã đặt.
Theo điều luật phân tích nêu trên thì có thể thấy, bị can hoặc bị cáo hoặc những người thân thích của họ hoàn toàn có quyền đặt tiền để bảo đảm cho bị can, bị cáo được tại ngoại ra bên ngoài. Số tiền bảo đảm tại ngoại có thể sẽ được trả lại khi bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ mà mình đã cam kết theo phân tích nêu trên. Trong trường hợp bị can hoặc bị cáo có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền bảo lãnh tại ngoại đó sẽ bị tịch thu và sung nộp vào ngân sách nhà nước.
2. Mức tiền đặt để bảo lãnh tại ngoại hiện nay được xác định là bao nhiêu?
Căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về việc quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm, có quy định cụ thể về mức tiền đặt để bảo đảm. Cụ thể như sau:
– Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án và các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định về mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo cần phải đặt để bảo đảm, tuy nhiên không được phép dưới số tiền tối thiểu như sau:
+ 30.000.000 đồng đối với các đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng;
+ 100.000.000 đồng đối với các đối tượng phạm tội nghiêm trọng;
+ 200.000.000 đồng đối với các đối tượng phạm tội rất nghiêm trọng;
+ 300.000.000 đồng đối với các đối tượng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Đồng thời, các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án có thể quyết định mức phạt tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn mức phạt tiền nêu trên, tuy nhiên không được phép dưới một phần hai (1/2) mức tối thiểu, trong những trường hợp cơ bản sau đây:
+ Bị can và bị cáo được xác định là thương binh, bệnh binh, được xác định là người được cơ quan có thẩm quyền tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân, được tặng huân huy chương kháng chiến, được tặng danh hiệu dũng sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được xác định là con đẻ và con nuôi hợp pháp của những đối tượng là liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, của những gia đình được tặng bằng “gia đình có công với cách mạng, có công với đất nước”;
+ Bị can và bị cáo được xác định là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, nhược điểm về tâm thần.
Theo đó thì có thể nói, mức đặt tiền để bảo lãnh bị can, bị cáo tại ngoại cần phải tuân thủ theo mức tối thiểu như điều luật phân tích nêu trên. Đồng thời, mức đặt tiền để bảo đảm có thể thấp hơn, tuy nhiên không được dưới 1/2 mức quy định trong những trường hợp cơ bản sau:
– Bị can hoặc bị cáo được xác định là thương binh, bệnh binh;
– Bị can hoặc bị cáo được xác định là người được cơ quan có thẩm quyền tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động, thầy thuốc nhân dân;
– Bị can hoặc bị cáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tặng huân huy chương kháng chiến, danh hiệu dũng sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước;
– Bị can hoặc bị cáo được xác định là con đẻ hoặc con nuôi hợp pháp của những đối tượng là liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình được tặng bằng khen “gia đình có công với cách mạng”;
– Bị can hoặc bị cáo được xác định là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc nhược điểm về tâm thần.
3. Có các biện pháp ngăn chặn nào trong tố tụng hình sự?
Căn cứ theo quy định tại Điều 109 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về các biện pháp ngăn chặn. Cụ thể như sau:
– Nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm xảy ra trên thực tế hoặc khi có đầy đủ bằng chứng chứng cứ, căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan có thẩm quyền hoặc sẽ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, hoặc nhằm mục đích đảm bảo cho quá trình thi hành án, cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình có thể ra quyết định áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt giữ, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm rời khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn hoãn xuất cảnh;
– Các trường hợp bắt người có thể kể đến bao gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can hoặc bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Theo điều luật phân tích nêu trên thì có thể nói, có 08 biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Cụ thể bao gồm:
– Giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
– Bắt người;
– Tạm giữ;
– Tạm giam;
– Bảo lĩnh (hay còn gọi là bảo lãnh);
– Đặt tiền để bảo đảm;
– Cấm đi khỏi nơi cư trú;
– Tạm hoãn xuất cảnh.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
– Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về việc quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm.
THAM KHẢO THÊM: